Bản án 18/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HN, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 15/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã HN, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 10/2018/TLST-HS, ngày 26 tháng 4 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2018/QĐXXST-HS, ngày 18 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo: 

Nguyn Thị N, sinh năm: 1990, tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi cư trú: Ấp Long Phước, xã LK A, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp;Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Con ông: Nguyễn Văn Ê, sinh năm: 1966 và bà: Mao Thị D, sinh năm: 1968; Bị cáo là con một trong gia đình; Chồng: Không có; Con: 02 người, người con lớn sinh ngày 22/5/2009, người con nhỏ sinh ngày 22/11/2015; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Tạm giữ: Từ ngày 10/02/2018 đến ngày 15/02/2018 tại Nhà tạm giữ Công an thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp; Áp dụng biên pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 15/02/2018 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Thị Thúy A, sinh năm 1967 (vắng mặt); Nơi cư trú: Ấp AP, xã AB A, thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp.

2. Trần Văn P, sinh năm 1968 (vắng mặt); Nơi cư trú: Ấp AP, xã AB A, thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 45 phút, ngày 10/02/2018 lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an thị xã HN phối hợp Công an xã AB A, tiến hành kiểm tra Phòng trọ số 5, nhà trọ Kim Láng thuộc ấp AP, xã AB A, thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp bắt quả tang đối tượng Nguyễn Thị N, sinh năm 1990, ngụ ấp Long Phước, xã LK A, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Khi bị bắt quả tang N khai nhận số ma túy trên vừa mua của một người phụ nữ không biết tên ở Thành phố Hồ Chí Minh, với giá 1.800.000 đồng để sử dụng thì bị bắt quả tang.

Tại Kết luận giám định số: 96/KL - KTHS, ngày 12/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp, đã kết luận như sau: Tinh thể rắn chứa trong 08 (Tám) bịch nylon hàn kín, được niêm phong trong phong bì, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của “Công an xã AB A – Công an thị xã HN” và các chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Thị N, Nguyễn Phú Bình, Trần Văn Ph, Lê Văn An và Lê Văn Cảm, gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng 2,3814 gam, loại Methamphetamine (thuộc Danh mục II, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ).

Về vật chứng có liên quan trong vụ án, Cơ quan điều tra đã thu giữ gồm:

- 07 (Bảy) bịch nylong nhỏ được hàn kín 02 đầu, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp);

- 01 (Một) bịch nylong lớn được hàn kín 02 đầu, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp);

- 01 (Một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy;

- 01 (Một) điện thoại di động màu đen hiệu Viettel đã qua sử dụng;

- 01 (Một) điện thoại di động màu đen hiệu ASUS đã qua sử dụng;

- 01 (Một) cây kéo bằng kim loại màu trắng;

- 01 (Một) cái bật lửa (hột quẹt) gas màu vàng;

- 01 (Một) chai gas màu đen.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Thị N đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 10/02/2018, lời khai người làm chứng, cùng các tài liệu và chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số:11/CT-VKS- HS, ngày 17 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp truy tố bị cáo Nguyễn Thị N về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai người làm chứng, kết quả giám định, cùng các tài liệu và chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã HN thực hành quyền công tố khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Thị N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị N về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N từ 02 năm đến 03 năm tù;

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- Phong bì đã niêm phong, bên trong có khối lượng 2,3055 gam, loại Methamphetamine, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N, Nguyễn Phú Bình, Trần Văn P, Lê Văn An, Lê Văn Cảm và có dấu mộc đỏ tròn của Công an xã AB A; có ghi số 96, ngày 12/02/2018, đóng dấu tròn màu đỏ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và có chữ ký ghi họ tên Nguyễn Nhạc Tiểu Châm và Nguyễn Văn Thắng Em;

- 01 (Một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy;

- 01 (Một) cây kéo bằng kim loại màu trắng;

- 01 (Một) chai gas màu đen có ghi chữ BLUFSTAR màu xanh;

- 01 (Một) hộp quẹt gas bằng kim loại màu vàng.

* Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu ASUS, màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, được niêm phong trong phong bì màu trắng, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N.

* Trả lại cho Nguyễn Thị N: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Viettel, màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, được niêm phong trong phong bì màu trắng, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N.

Bị cáo Nguyễn Thị N thống nhất với nội dung luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Nguyễn Thị N là người có đủ năng lực trách Nhiệm hình sự, bị cáo đã có hành vi cất giấu bất hợp pháp chất ma túy để nhằm mục đích sử dụng, cụ thể là: Vào lúc 14 giờ 45 phút, ngày 10/02/2018, tại Phòng trọ số 5, nhà trọ Kim Láng thuộc ấp AP, xã AB A, thị xã HN, tỉnh Đồng Tháp, Nguyễn Thị N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, thì bị lực lượng cảnh sát điều tra tội phạm về hình sự, kinh tế, ma túy Công an thị xã HN phối hợp Công an xã AB A bắt quả tang.

Căn cứ Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 10/02/2018 do Đội cảnh sát điều tra về hình sự, kinh tế, ma túy Công an thị xã HN lập; căn cứ lời thừa nhận của bị cáo cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án;

Căn cứ kết luận giám định số: 96/KL - KTHS, ngày 12/02/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp, đã kết luận như sau: Tinh thể rắn chứa trong 08 (Tám) bịch nylon hàn kín, được niêm phong trong phong bì, có đóng hình dấu tròn màu đỏ của “Công an xã AB A – Công an thị xã HN” và các chữ ký ghi họ tên: Nguyễn Thị N, Nguyễn Phú Bình, Trần Văn P, Lê Văn An và Lê Văn Cảm thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Thị N tại Phòng trọ số 5, nhà trọ Kim Láng gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng 2,3814 gam, loại Methamphetamine.

Như vậy đã có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thị N đã phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

 “ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)………………………

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý chất ma túy, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.

Như chúng ta đã biết chất ma túy là chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành, việc mua bán, sử dụng phải được cơ quan chức năng của Nhà nước cho phép. Bởi lẽ hậu quả của việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ra cho Xã hội là rất nặng nề, nó gây tác tại lâu dài cho nòi giống, phát sinh mâu thuẫn trong cộng đồng, làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình của người sử dụng, gây tổn hại về tình cảm, ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu dài của dân tộc, đồng thời nó còn làm phát sinh Nhiều tệ nạn Xã hội khác như: Trộm cắp tài sản, mại dâm hoặc thậm chí giết người, cướp của. Do đó, đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng của bị cáo Nguyễn Thị N là rất nguy hiểm cho Xã hội, nên cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt thật nghiêm khắc để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

[2] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách Nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách Nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách Nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa.

Về tình tiết tăng nặng trách Nhiệm hình sự: Không có. 

Căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và tình tiết giảm nhẹ trách Nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng một thời gian nhất định, để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục cho bị cáo thấy được lỗi lầm của mình, phấn đấu trở thành con người tốt có ích cho gia đình và xã hội. Có như thế mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời cũng nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho những ai có ý định phạm tội như bị cáo.

 [3] Về vật chứng vụ án:

Đối với số lượng ma túy và các vật khác có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo gồm:

- Phong bì đã niêm phong, bên trong có khối lượng 2,3055 gam, loại Methamphetamine, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N, Nguyễn Phú Bình, Trần Văn P, Lê Văn An, Lê Văn Cảm và có dấu mộc đỏ tròn của Công an xã AB A; có ghi số 96, ngày 12/02/2018, đóng dấu tròn màu đỏ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và có chữ ký ghi họ tên Nguyễn Nhạc Tiểu Châm và Nguyễn Văn Thắng Em;

- 01 (Một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy;

- 01 (Một) cây kéo bằng kim loại màu trắng;

- 01 (Một) chai gas màu đen có ghi chữ BLUFSTAR màu xanh;

- 01 (Một) hộp quẹt gas bằng kim loại màu vàng.

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu ASUS, màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, được niêm phong trong phong bì màu trắng, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N.

Hội đồng xét xử căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy và nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp pháp luật.

Riêng đối với chiếc điện thoại di động hiệu Viettel, màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, được niêm phong trong phong bì màu trắng, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N, Hội đồng xét xử xét thấy tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên trả lại cho chủ sở hữu là bị cáo Nguyễn Thị N là phù hợp pháp luật.

Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy nội dung luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã HN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã HN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về án P sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án và được trừ đi thời gian bị tạm giữ trước đó (từ ngày 10/02/2018 đến ngày 15/02/2018).

- Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

+ Phong bì đã niêm phong, bên trong có khối lượng 2,3055 gam, loại Methamphetamine, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N, Nguyễn Phú Bình, Trần Văn P, Lê Văn An, Lê Văn Cảm và có dấu mộc đỏ tròn của Công an xã AB A; có ghi số 96, ngày 12/02/2018, đóng dấu tròn màu đỏ Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp và có chữ ký ghi họ tên Nguyễn Nhạc Tiểu Châm và Nguyễn Văn Thắng Em;

+ 01 (Một) bộ dụng cụ dùng để sử dụng trái phép chất ma túy;

+ 01 (Một) cây kéo bằng kim loại màu trắng;

+ 01 (Một) chai gas màu đen có ghi chữ BLUFSTAR màu xanh;

+ 01 (Một) hộp quẹt gas bằng kim loại màu vàng.

* Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động hiệu ASUS, màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, được niêm phong trong phong bì màu trắng, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N.

* Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị N: 01chiếc điện thoại di động hiệu Viettel, màu đen đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong, được niêm phong trong phong bì màu trắng, trên phong bì có chữ ký, ghi họ tên của Nguyễn Thị N.

(Tất cả các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thị xã HN đang quản lý).

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị N phải chịu 200.000đồng tiền án P hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/6/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 15/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về