Bản án 18/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 18/2018/HSST NGÀY 13/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 3 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2018/TLST-HS ngày 31 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Minh T, sinh ngày 07/11/1971;

Nơi sinh: xã N, huyện P, tỉnh Hưng Yên;

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã N , huyện P, tỉnh Hưng Yên;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 10/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Ông Phạm Văn Cn, đã chết;

Mẹ đẻ: Bà Đặng Thị T , sinh năm 1949;

Hiện làm ruộng và trú tại thôn L, xã N, huyện P, tỉnh Hưng Yên;

Gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ hai;

Vợ: Chị Lê Thị Bích H, sinh năm 1968. Ly hôn năm 2002; Có 01 con, sinh năm 1993;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học đến hết lớp 10/10 sau đó nghỉ học ở nhà lao động tự do. Tháng 03 năm 1990 nhập ngũ đến tháng 3 năm 1992 xuất ngũ về địa phương.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/12/2017 đến ngày 28/12/2017 chuyển tạm giam cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Bị cáo trình xuất có mặt tại phiền tòa.

Người làm chứng:

- ông Nguyễn Duy M, sinh năm 1961 (vắng mặt)

- ông Cao Đức T, sinh năm 1952 (vắng mặt)

Đều trú tại: thôn L, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 09 giờ ngày 25/12/2017, Phạm Minh T đi bộ ra phà La Tiến rồi đi nhờ xe của một người không quen biết sang thị trấn Quỳnh Côi, huyện Qụ, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Đến thị trấn Quỳnh Côi, T xuống xe đi bộ vào đường thôn Lương Cụ Nam, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ thì gặp và mua được của một nam thanh niên khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ 200.000 đồng, được 01 gói ma túy, bên ngoài được gói bằng lớp giấy màu xanh. Sau khi mua được ma túy, Tuân cất giấu vào trong túi áo ngực bên phải đang mặc, rồi đi bộ về thôn Lương Cụ Bắc, xã Quỳnh Hồng tìm chỗ vắng để sử dụng thì bị tổ công tác của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện bắt quả tang. Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong toàn bộ vật chứng.

Tại bản kết luận giám định số 527/KLGĐ - PC54 ngày 25/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình, kết luận:

Mẫu gửi giám định thu của Phạm Minh T là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có trọng lượng 0,3290 gam”.

Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ.”

Cáo trạng số 12/KS-ĐT ngày 30/01/2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố bị cáo Phạm Minh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm, bị cáo Phạm Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Minh T  phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Phạm Minh T mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 25/12/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong 01 phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật giám định số: 527/KLGĐ - PC54 ngày 25/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phạm Minh T không có tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền,trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến đề nghị, khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng được chứng minh bằng các chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ như:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Quỳnh Phụ, lập hồi 10 giờ ngày 25/12/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. (Bút lục số: 28 - 29)

- Biên bản niêm phong vật chứng; Bản kết luận giám định số 527/KLGĐ - PC54 ngày 25/12/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình. (Bút lục số: 31, 35)

- Bản tự khai và biên bản ghi lời khai của những người làm chứng gồm ông Nguyễn Duy M, sinh năm 1961 và ông Cao Đức T, sinh năm 1952; đều trú tại: thôn L, xã Q, huyện Q (Bút lục số: 50 - 59)

Ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu khác thu thập được có trong hồ sơ.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 25/12/2017, tại đường thôn Lương Cụ Bắc, xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Phạm Minh T đã có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 gói nhỏ là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có trọng lượng 0,3290 gam, nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân, đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ đã truy tố là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của bị cáo Phạm Minh T  đã phạm vào tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển,sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

…..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetaminne, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hiểu được tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, hiểu được tệ nạn ma tuý đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội. Ma túy là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đại dịch HIV/AIDS đồng thời là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, do vậy bị cáo phải chịu mức án tương xứng với hành vi phạm tội của mình và cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội đồng thời đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Đánh giá về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo đã có thời gian tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam phục vụ Tổ quốc do vậy Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Hội đồng xét xử áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với bị cáo theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/06/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 để xét xử bị cáo theo quy định tại khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân và bị cáo có thu nhập không ổn định do đó không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo Phạm Minh T 01 gói ma túy loại Heroin có trọng lượng 0,3290 gam, Cơ quan giám định đã hoàn mẫu vật giám định trong phong bì niêm phong, cần tịch thu để tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý xét thấy là phù hợp.

Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự 2015

1.Tuyên bố bị cáo Phạm Minh T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy

Xử phạt Phạm Minh T 01(một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/12/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy trong 01 phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật giám định số 527/KLGĐ - PC54 ngày 25/12/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình.

(Vật chứng trên đang được chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ và chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 30/01/2018).

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Minh T  phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo Phạm Minh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 13/3/2018

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HS-ST ngày 13/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về