TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 18/2018/HS-ST NGÀY 05/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 5 tháng 9 năm 2018, tại Hội trường xét xử của Tòa án, Tòa án nhân dân huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2018/TLST-HS, ngày 15/8/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2018/QĐXXST-HS, ngày 23 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo: NGUYỄN THỤY H; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 19/02/1988, tại: Huyện P, tỉnh Q; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và nơi cư trú: Khối 2B, thị trấn khâm Đức, huyện P, tỉnh Q; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Cảnh T (1954) và con bà Trần Thị L (Chết). Tiền sự: Không; tiền án: 01, ngày 17/9/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 06 (Sáu) năm tù về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”, ra tù ngày 28/4/2017; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 30/5/2018 và tạm giam ngày 5/6/2018, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Nam; có mặt tại phiên tòa.
*Người bị hại: Ông Trần Đình T; trú tại: Khối 2A, thị trấn khâm Đức, huyện P, tỉnh Q; có mặt tại phiên tòa.
*Người làm chứng:
- Ông Lê Thành N; trú tại: Công an thị trấn Thạnh Mỹ, huyện N, tỉnh Q; vắng mặt tại phiên tòa.
- Ông Nguyễn Thanh P; trú tại: Thôn Thạnh Mỹ 2, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện N, tỉnh Q; vắng mặt tại phiên tòa.
- Ông Lê Văn T; trú tại: Công an thị trấn Thạnh Mỹ, huyện N, tỉnh Q; vắng mặt tại phiên tòa.
- Ông Bhơ Nướch C; trú tại: Tổ 1, thôn Đồng Râm, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện N, tỉnh Q; vắng mặt tại phiên tòa.
- Bà Nguyễn Thị H; trú tại: Tổ 7, thôn Dung, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện N, tỉnh Q; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sáng ngày 29/5/2018, Nguyễn Thụy H đến nhà dì ruột của mình là bà Trần Thị L và Trần Thị P ở thị trấn khâm Đức, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam để xin tiền về Đà Nẵng thăm con nhưng không gặp nên quay về nhà tại khối 2B thị trấn khâm Đức, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam. Khi đi ngang qua số nhà 41 đường Quang Trung khối 2B thị trấn khâm Đức thì Nguyễn Thụy H phát hiện thấy có 01 chiếc xe máy YAMAHA - TAURUS biển kiểm soát số 92L2-1550 màu đỏ đen để trước sân nhà không ai canh giữ, có sẵn chìa khóa cắm trên xe nên Nguyễn Thụy H nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy này về Đà Nẵng. Nguyễn Thụy H vào dắt xe ra đường Quang Trung, đạp nổ máy xe chạy ra đường Hồ Chí Minh về hướng Đà Nẵng thì ông Trần Đình T ở trong nhà phát hiện và đuổi theo nhưng không kịp nên đến Công an huyện Phước Sơn trình báo. Công an huyện Phước Sơn tiến hành truy tìm, đồng thời điện báo Công an các huyện lân cận cùng phối hợp. Đến 14 giờ 35 phút cùng ngày, khi Nguyễn Thụy H đang điều khiển xe máy biển kiểm soát số 92L2-1550 đến huyện Nam Giang thì Công an huyện Nam Giang phát hiện, tiến hành truy đuổi, bắt giữ Nguyễn Thụy H. Sau đó, bàn giao Nguyễn Thụy H cùng tang vật là xe máy biển kiểm soát số 92L2-1550 cho Công an huyện Phước Sơn để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.
Vật chứng thu giữ: 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA-TAURUS, biển kiểm soát số 92L2-1550 màu đỏ đen; 01 mũ bảo hiểm màu xám; 01 áo khoác dài tay kiểu nữ màu trắng đục đã cũ, có hoa văn, có mũ choàng đầu nối liền; 01 áo khoác Jean màu xám đã qua sử dụng; 01 gói thuốc lá hiệu WHITE HOUSE bên trong có 03 điếu thuốc; 01 bật lửa màu xanh lá cây nhạt đã qua sử dụng; 01 thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK, tên khách hàng NGUYEN THI LUYEN, thẻ phát hành năm 2015.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 10/KL-ĐG, ngày 01/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu YAMAHA-TAURUS màu đỏ-đen, biển kiểm soát số 92L2-1550 có giá trị 3.500.000 đồng Tại cáo trạng số: 19/CT-VKS-HS, ngày 14/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Nguyễn Thụy H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thụy H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đã truy tố; cụ thể bị cáo Nguyễn Thụy H khai nhận: Ngày 29/5/2018, bị cáo muốn về Đà Nẵng nhưng không có tiền nên bị cáo đến nhà dì ruột là bà Trần Thị L để xin tiền nhưng không có ai ở nhà. Sau đó bị cáo đi bộ về nhà đến nhà anh T thì thấy có 01 chiếc xe máy YAMAHA-TAURUS biển kiểm soát số 92L2-1550, trên xe có chìa khóa và mũ bảo hiểm nên bị cáo đã nảy sinh ý định trộm cắp và bị cáo đã lấy trộm xe máy này chạy về hướng Đà Nẵng, đến huyện Nam Giang thì bị Công an huyện Nam Giang bắt giữ. Việc thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe máy trên không có ai xúi giục; trong quá trình điều tra, truy tố không bị đánh đập, không bị ép cung; hành vi của bị cáo là sai trái, vi phạm pháp luật.
Tại phiên tòa người bị hại ông Trần Đình T khai: Ngày 29/5/2018, tôi để xe máy trong sân nhà, trên xe có chìa khóa và mũ bảo hiểm, khi nghe tiếng xe máy nổ thì tôi chạy ra và lấy xe máy khác đuổi theo đến Hồ Mùa Thu nhưng không kịp nên tôi đến Công an huyện Phước Sơn trình báo về việc bị mất trộm xe máy. Tôi đã nhận lại xe máy và mũ bảo hiểm, xe máy không bị hư hỏng gì, tôi không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản gì.
Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa xét thấy ngày 29/5/2018 bị cáo Nguyễn Thụy H đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA-TAURUS biển kiểm soát số 92L2-1550 của ông Trần Đình T tại khối 2B thị trấn khâm Đức, huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam có giá trị 3.500.000 đồng. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo Nguyễn Thụy H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền sự; có 01 tiền án, ngày 17/9/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 06 (Sáu) năm tù về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”, đến ngày 28/4/2017 chấp hành xong, chưa được xóa án tích thì ngày 29/5/2018 bị cáo lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên bị cáo phạm tội lần này là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, biết ăn năn hối cải, hoàn cảnh gia đình khó khăn, phạm tội nhưng gây thiệt hại nên được xem là tình tiết giảm nhẹ.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Thụy H từ: 9-12 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông Trần Đình T đã nhận lại chiếc xe máy biển kiểm soát số 92L2-1550 và mũ bảo hiểm. Ngoài ra, không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản gì nên không đề cập.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo Nguyễn Thụy H: 01 gói thuốc lá WHITE HOUSE bên trong có 03 điếu thuốc; 01 bật lửa màu xanh lá cây nhạt đã qua sử dụng; 01 áo khoác dài tay kiểu nữ màu trắng đục đã cũ, có mũ choàng đầu nối liền; 01 áo khoác Jean màu xám đã qua sử dụng; 01 thẻ ATM, tên khách hàng NGUYEN THI LUYEN.
Bị cáo Nguyễn Thụy H không tranh luận, nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Người bị hại ông Trần Đình T không tranh luận gì và không yêu cầu bị cáo bồi thường khoản gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, của điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam, của kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Nên các hành vi và quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.
[2] Bị cáo Nguyễn Thụy H biết và nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi bị pháp luật cấm và sẽ bị xử lý theo pháp luật thế nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA-TAURUS biển kiểm soát số 92L2-1550 của ông Trần Đình T có giá trị 3.500.000 đồng.
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; kết luận định giá tài sản; luận tội của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của người bị hại tại phiên tòa phù hợp với tài liệu, chứng cứ được chứng minh có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ kết luận: Hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của bị cáo Nguyễn Thụy H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đã truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Công dân có quyền được có tài sản hợp pháp và được pháp luật bảo vệ nếu người nào cố ý xâm phạm trái phép đến quyền tài sản của người khác thì sẽ bị pháp luật xử lý nghiêm minh. Hành vi lén lút trộm cắp tài sản của bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong nhân dân. Xét thấy người thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép chiếc xe máy YAMAHA-TAURUS biển kiểm soát số 92L2-1550 của ông Trần Đình T có giá trị 3.500.000 đồng vào ngày 29/5/2018 chính là bị cáo, do đó bị cáo Nguyễn Thụy H phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội và cách ly bị cáo ra ngoài xã một thời gian để cải tạo, giáo dục.
Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo chưa có tiền sự; có 01 tiền án, ngày 17/9/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 06 (Sáu) năm tù về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong ngày 28/4/2017, chưa được xóa án tích thì ngày 29/5/2018 bị cáo lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên hành vi phạm tội lần này của bị cáo với tình tiết tăng nặng là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, hoàn cảnh gia đình khó khăn, gia đình có công với cách mạng nên được xem là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Thụy H không có việc làm và thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là ông Trần Đình T không yêu cầu bị cáo Nguyễn Thụy H bồi thường khoản gì nên không đề cập.
[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Thụy H: 01 áo khoác dài tay kiểu nữ màu trắng đục đã cũ, có hoa văn, có mũ choàng đầu nối liền; 01 áo khoác Jean màu xám đã qua sử dụng; 01 gói thuốc lá WHITE HOUSE bên trong có 03 điếu thuốc; 01 bật lửa màu xanh lá cây nhạt đã qua sử dụng; 01 thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK, tên khách hàng NGUYEN THI LUYEN, thẻ phát hành năm 2015.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA-TAURUS biển kiểm soát số 92L2-1550 màu đỏ đen và mũ bảo hiểm. Ngày 20/7/2018, Cơ quan điều tra Công an huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam đã trả lại cho chủ sở hữu là ông Trần Đình T nên không đề cập.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thụy H phải chịu 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thụy H phạm tội “Trộm cắp tài sản”
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h,s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo: NGUYỄN THỤY H: 9 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ 30/5/2018.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Thụy H: 01 (một) áo khoác dài tay kiểu nữ, màu trắng đục đã cũ, có hoa văn, có mũ choàng đầu nối liền; 01 (một) áo khoác Jean màu xám đã qua sử dụng; 01 (một) gói thuốc lá hiệu WHITE HOUSE bên trong có 03 (ba) điếu thuốc; 01 (một) bật lửa màu xanh lá cây nhạt đã qua sử dụng; 01 (một) thẻ ATM ngân hàng AGRIBANK, tên khách hàng NGUYEN THI LUYEN, thẻ phát hành năm 2015. (Hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 8/8/2018).
Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Thụy H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng).
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm bị cáo; người bị hại có quyền làm đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm.
Bản án 18/2018/HS-ST ngày 05/09/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 18/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phước Sơn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về