Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 18/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 518/2017/TLST - HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Xin ly hôn”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 09/02/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đình T, sinh năm: 1959

Trú tại: Đường T, Phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1960

Trú tại: Đường T, Phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (Ông T có mặt; bà H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện,bản tự khai và trình bày tại phiên tòa của nguyên đơn:

* Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Đình T và bà Nguyễn Thị H đăng ký kết hôn vào năm 1984 taị Ủy ban nhân dân phường, thành phố N, tỉnh Nam Định, hôn nhân trên có sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn thì vợ chồng ông T bà H chung sống mỗi người một nơi, bà H vẫn sống ở Nam Định. Đến tháng 9/1985 thì ông T đưa bà H về sinh sống nhiều nơi tại thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Đến năm 2006 thì vợ chồng về sống tại địa chỉ: Đường T, Phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 1991 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bà H có mối quan hệ không tốt với gia đình chồng, không quan tâm chăm sóc cho chồng, mạnh ai người nấy sống, ông T nhiều lần khắc phục mâu thuẫn nhưng không thành, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên ông T xin được ly hôn với bà H.

* Về con chung: Vợ chồng có 02 con tên Nguyễn Thị Mai Tố L, sinh ngày 26/11/1984 và Nguyễn Thành H sinh ngày 21/7/1988 vì các con chung đã trưởng thành nên ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Về nợ chung: Ông T xác nhận không có nợ chung.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật; về nội dung giải quyết vụ án căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử, xử: Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Đình T về việc xin ly hôn bà Nguyễn Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiêntòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn ông Nguyễn Đình T có mặt; Bị đơn với bà Nguyễn Thị H Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa và không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Về quan hệ tranh chấp: Xuất phát từ việc vợ chồng mâu thuẫn với nhau trong cuộc sống nên ông Nguyễn Đình T xin ly hôn với với bà Nguyễn Thị H; vì vậy đủ cơ sở xác định quan hệ tranh chấp là “Xin ly hôn” theo qui định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đ–tỉnh Lâm Đồng.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Vợ chồng ông T, bà H có đăng ký kết hôn vào ngày 27 tháng 01 năm 1984 tại Ủy ban nhân dân Phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định, hôn nhân tự nguyện. Ông T cho rằng vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 1991 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bà H có mối quan hệ không tốt với gia đình chồng, không quan tâm chăm sóc cho chồng, mạnh ai người nấy sống, hiện nay hai bên tuy vẫn sống chung nhưng không còn quan tâm đến nhau.

Vì vậy ông T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn bà H.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà H xảy ra mâu thuẫn như ông T khai; vì hai bên tuy vẫn sống chung nhưng không còn quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau để cải thiện mối quan hệ vợ chồng; quá trình Tòa án thụ lý vụ án và gửi Thông báo thụ lý vụ án cho các đương sự nhưng bà Nguyễn Thị H không gửi cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình. Tòa án cũng đã tống đạt hợp lệ Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, giấy triệu tập cho bà Nguyễn Thị H nhưng cả hai lần bà H đều không đến Tòa án để tham gia phiên họp và hòa giải, đến khi xét xử thì bà H cũng không có ý kiến gì thể hiện mong muốn được đoàn tụ hay không. là thể hiện việc không thiện chí hàn gắn nên có kéo dài cuộc sống chung thì vợ chồng cũng không có hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên căn cứ điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của ông T được ly hôn với bà H là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về con chung: Do các con chung đã đủ tuổi trưởng thành có đủ khả năng lao động nên không đề cập giải quyết.

[3] Về tài sản chung: Các bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.

[4] Về nợ chung: Ông T xác định không có nên không xét đến.

- Về án phí: Buộc ông T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 điều 39, điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thườngvụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đình T về việc “Xin ly hôn” bà Nguyễn Thị H;

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Đình T và bà Nguyễn Thị H được ly hôn2. Về án phí: Buộc ông Nguyễn Đình T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0001687 ngày 02/10/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ (ông T đã nộp đủ).

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tán sơ thẩm; bị đơn vắng mặt, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từngày nhận được bản sao bản án (hoặc bản án được niêm yết) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 28/03/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:18/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về