Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 15/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 18/2018/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 671/2017/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2017 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2018. giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Võ Thị Tú T, sinh năm 1995; địa chỉ cư trú: Ấp B, xã G, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Có mặt.

Bị đơn: Anh Trần Chí D, sinh năm 1980, hộ khẩu thường trú tại: Khóm X, thị trấn N, huyện N, tỉnh Cà Mau; tạm trú tại: Ấp B, xã G, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 27 tháng 10 năm 2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Võ Thị Tú T trình bày:

Chị và anh Trần Chí D chung sống từ năm 2015, không có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng cha mẹ chị, đến năm 2017, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và ly thân. Nguyên nhân do anh D không chăm lo kinh tế gia đình, không quan tâm đến vợ con. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh Trần Chí D

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung tên Trần Gia B, sinh ngày 23/5/2016, hiện đang sống với chị. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Chị yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 01 năm 2018 bị đơn anh Trần Chí D trình bày:

Nhận thấy thống nhất lời trình bày của chị T về hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn, về con chung, tài sản chung và nợ chung. Nay anh đồng ý ly hôn với chị T. Về con chung: Anh đồng ý giao chị T tiếp tục nuôi dưỡng con chung và đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự thực hiện đầy đủ về quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 xem xét quyết định:

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Thị Tú T.

- Về con chung: Giao chị T tiếp tục nuôi con chung, buộc anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Bị đơn anh Trần Chí D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh D là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh D tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Trong thời gian chung sống, anh chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh D không quan tâm đến gia đình. Nay chị T anh D cùng có nguyện vọng được ly hôn. Tuy nhiên, anh D vắng mặt nên Hội đồng xét xử không công nhận sự thuận tình ly hôn của anh chị mà có căn cứ khẳng định mâu thuẫn giữa chị T và anh D là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3] Về con chung: Cháu Trần Gia B, sinh ngày 23/5/2016, đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị T và anh D cùng có nguyện vọng giao cháu B cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Chị T yêu cầu cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, anh D cũng đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Do đó, cần giao cháu Bảo cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng và buộc anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng đến khi cháu Bảo đủ 18 tuổi là phù hợp quy định tại Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Anh D được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

 [4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 [5] Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh tại phiên tòa là có căn cứ nên chấp nhận.

 [6] Về án phí: Chị T là nguyên đơn, anh D là người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên phải chịu án phí theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Tuyên xử :

1. Về hôn nhân: Chị Võ Thị Tú T được ly hôn với anh Trần Chí D.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Gia B, sinh ngày 23/5/2016 cho chị Võ Thị Tú T trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Trần Chí D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu B mỗi tháng 1.000.000 (một triệu) đồng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm đến khi cháu B đủ 18 tuổi.

Anh D được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5. Về án phí: Chị Võ Thị Tú T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009435 ngày 22/11/2017 của Chi Cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng; chị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Trần Chí D phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.

6. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 15/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về