Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 09/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 18/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 09 tháng 11 năm 2018, tại phòng xét xử B trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Jút tỉnh Đăk Nông, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 187/2018/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2018, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/10/2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thu L, sinh năm 1989

Trú tại: Buôn T, xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông.

- Bị đơn: Anh Đàm Văn H, sinh năm 1990

Trú tại: Buôn T, xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông.

(Các đương sự đều có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 04/9/2018, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phan Thu L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thu L và anh Đàm Văn H được gia đình hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2008, và về chung sống với nhau đến ngày 10 tháng 8 năm 2010 mới tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông. Chị L và anh H kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc. Chị L, anh Đ có tìm hiểu nhau được khoảng 02 năm thì tiến đến hôn nhân. Quá trình sống chung được 10 năm, nhưng vợ chồng luôn xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H thường xuyên nhậu nhẹt, chơi bời, đánh bạc, không quan tâm chăm sóc vợ con, gia đình. Anh H thường xuyên bỏ nhà đi cả tuần rồi cầm cố điện thoại, xe máy lấy tiền đi chơi. Nhiều lần chị L đã khuyên nhủ, nhưng anh H vẫn không sửa chữa, mà còn đánh đập, chửi bới chị L. Anh H cũng đã nhiều lần hứa sửa đổi nhưng vẫn không thay đổi. Chị L và anh H đã sống ly thân được khoảng 5 tháng. Hiện chị L không còn tình cảm với anh H nữa, nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H.

Về con chung: Quá trình chung sống, chị L và anh H có 02 con chung là cháu Đàm Phúc M, sinh ngày 23/02/2009, và cháu Đàm Nhã V, sinh ngày 25/5/2013. Chị L có nguyện vọng nuôi cháu V, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, và giao cháu M cho anh H trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai và biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, bị đơn anh Đàm Văn Hiếu trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh H thừa nhận việc kết hôn đúng như chị L đã trình bày, anh H và chị L kết hôn hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc. Quá trình chung sống, anh H thừa nhận có uống rượu, đi chơi nhưng không thường xuyên. Anh H thừa nhận vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do chị L không hiểu anh H, hai vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 5 tháng. Tuy nhiên hiện nay anh H vẫn còn tình cảm với chị L, nên anh H không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh H thừa nhận, vợ chồng có hai con chung đúng như chị H trình bày, 02 con chung là cháu Đàm Phúc M, sinh ngày 23/02/2009 và cháu Đàm Nhã V, sinh ngày 25/5/2013. Anh H có nguyện vọng, trường hợp phải ly hôn, anh được nuôi con chung là cháu Đàm Phúc M, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con, và giao cháu Đàm Nhã V cho chị L trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Đàm Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút có quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng và nội dung vụ án:

- Về tố tụng:

+ Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán từ khi thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị Phan Thu L và bị đơn anh Đàm Văn H đã nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình được BLTTDS và các văn bản liên quan quy định.

- Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Phan Thu L và anh Đàm Văn H đều thừa nhận, trong thời gian sinh sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, nguyên nhân do anh H hay uống rượu, và hai vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 5 tháng. Tòa án nhân dân huyện Cư Jút đã tiến hành hòa giải để chị L và anh H đoàn tụ, nhưng chị L vẫn giữ nguyên quan điểm yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh H; đại diện Viện kiểm sát nhân dân đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thu L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về Thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Phan Thu L yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Cư Jút giải quyết việc ly hôn với anh Đàm Văn H, anh H là bị đơn hiện đang cư trú tại buôn T, xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. [2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Các đương sự thừa nhận, hai bên được gia đình tổ chức đám cưới vào năm 2008, và về chung sống với nhau đến ngày 10 tháng 8 năm 2010 mới tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông. Hôn nhân là tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối. Vì vậy quan hệ hôn nhân giữa các bên là hợp pháp.

Về mẫu thuẫn vợ chồng, chị L khai, quá trình chung sống, vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, hay xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H hay uống rượu, đánh bạc, không quan tâm đến vợ con, chị L bỏ về nhà bố mẹ để để ở, vợ chồng đã sống ly thân được khoảng 5 tháng.

Tại phiên tòa, anh H thừa nhận cũng có những hành vi như uống rượu, đi chơi về khuya, nhưng không phải thường xuyên, có đánh bài nhưng giá trị nhỏ, không đáng kể, tính chất chỉ là giải trí.

Qua kết quả xác minh tại Công an xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông, Công an xã cho biết “Anh Đ có hành vi sử dụng bạo lực đánh chị L, và đã bị Công an xã xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền, về quan hệ hôn nhân anh Đ và chị L có mâu thuẫn, hiện hai bên đã sống ly thân”.

Mặc dù anh H không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị L, vì anh H cho rằng, hiện nay anh H vẫn còn tình cảm với chị L, mâu thuẫn vợ chồng là chưa nghiêm trọng, tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy, chị L và anh Đ có cuộc sống chung vợ chồng không hạnh phúc, anh H có hành vi bạo lực gia đình, đánh chị L, đồng thời anh H, chị L cũng đã sống ly thân được một khoảng thời gian, mặc dù Tòa đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành, mâu thuẫn giữa chị L và anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận cho chị L được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Chị L có nguyện vọng được trực tiếp trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu V, và giao cháu M, cho anh H nuôi dưỡng; anh H cũng có nguyện vọng được trực tiếp trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu M và giao cháu V cho chị L nuôi dưỡng. Chị L, anh Đ đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Theo biên bản lấy lời khai của cháu M thì nguyện vọng của cháu M là được ở với bố. Hội đồng xét xử xét thấy, cần giao con chung theo nguyện vọng của chị L là được trực tiếp nuôi dưỡng cháu V, và anh H được trực tiếp nuôi dưỡng cháu M là hợp lý, phù hợp với nguyện vọng của cháu M (BL 29). Chị L và anh H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phan Thu L và anh Đàm Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đề cập xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Phan Thu L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án về tranh chấp Hôn nhân gia đình không có giá ngạch theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phan Thu L được ly hôn với anh Đàm Văn H

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Đàm Phúc M, sinh ngày 23/02/2009 cho anh Đàm Văn H được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành; giao cháu Đàm Nhã V, sinh ngày 25/5/2013 cho chị Phan Thu L được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục đến tuổi trưởng thành (đủ tròn 18 tuổi).

Chị Phan Thu L, anh Đàm Văn H thực hiện các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau ly hôn, không ai được cản trở.

Chị Phan Thu L và anh Đàm Văn H đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Vì quyền lợi của các con chung, đương sự có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Phan Thu L và anh Đàm Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phan Thu L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án Hôn nhân, gia đình không có giá ngạch là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002857 ngày 01/10/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Jút tỉnh Đăk Nông.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

356
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HNGĐ-ST ngày 09/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:18/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về