TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 181/2021/DS-PT NGÀY 26/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Long An tiến hành xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 85/2021/TLPT-DS ngày 06 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2020/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Tân Hưng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 134/2021/QĐ-PT ngày 10 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị G, sinh năm 1968. Địa chỉ cư trú: Ấp C, xã V, huyện T, tỉnh Long An.
- Bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị Hiền T, sinh năm 1977.
2. Ông Phạm Ngọc H, sinh năm 1976.
Cùng địa chỉ cư trú: Số nhà 24, đường H, khu phố G, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long An.
- Người kháng cáo: bà Phạm Thị G, nguyên đơn.
(bà G xin xét xử vắng mặt; ông Hân có mặt; bà T được tống đạt hợp lệ).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 12 tháng 02 năm 2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 02/11/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Phạm Thị G trình bày:
Bà G làm chủ hụi, bà T tham gia hụi, bà T đã lĩnh hụi, nhưng chưa góp hụi lại, bà G góp thay. Nay bà G yêu cầu bà T, ông Hân liên đới trả tiền như sau:
Dây hụi ngày 16/10/2017 âm lịch nhằm ngày 03/12/2017, bà G tổ chức hụi tháng, có 15 người tham gia, gồm 24 phần, mỗi phần là 4.000.000 đồng, bà T có tham gia 03 phần, hụi mãn vào ngày 14/10/2019, bà T đã lĩnh hụi vào ngày 02/01/2018 được số tiền 66.000.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.000.000 đồng, bà T còn 64.000.000 đồng, ngày 02/02/2018 bà T lĩnh hụi được số tiền 66.000.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.000.000 đồng, bà T còn 64.000.000 đồng, ngày 02/03/2018 bà T lĩnh hụi được số tiền 68.000.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.000.000 đồng, bà T còn 66.000.000 đồng. Sau đó, bà T có góp hụi đến tháng 5/2019 thì bà T không góp tiếp, bà G góp thay 05 lần, cho 03 phần, mỗi phần 4.000.000 đồng (05 lần x 03 phần x 4.000.000 đồng = 60.000.000 đồng) thành tiền là 60.000.000 đồng.
Dây hụi ngày 10/01/2018 âm lịch nhằm ngày 25/2/2018, bà G tổ chức hụi tháng, có 18 người tham gia, gồm 26 phần, mỗi phần 3.000.000 đồng, bà T có tham gia 04 phần, hụi mãn vào tháng 04 năm 2020, bà T đã lĩnh hụi vào ngày 23/06/2018 được số tiền 54.840.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 1.500.000 đồng, bà T còn 53.340.000 đồng, ngày 20/08/2018 bà T lĩnh hụi được số tiền 54.950.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 1.500.000 đồng, bà T còn 53.450.000 đồng, ngày 19/09/2018 bà T lĩnh hụi được số tiền 54.950.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 1.500.000 đồng, bà T còn 53.450.000 đồng, ngày 16/11/2018 bà T lĩnh hụi được số tiền 54.320.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi số tiền 1.500.000 đồng, bà T còn 52.820.000 đồng. Sau đó, bà T có góp hụi đến tháng 07 năm 2019 thì bà T không góp tiếp, bà G góp thay 08 lần, cho 04 phần, mỗi phần 3.000.000 đồng (08 lần x 04 phần x 3.000.000 đồng = 96.000.000 đồng) thành tiền là 96.000.000 đồng.
Dây hụi ngày 22/6/2018 âm lịch nhằm ngày 03/7/2018, bà G tổ chức hụi tháng, có 18 người tham gia, gồm 25 phần, mỗi phần là 5.000.000 đồng, bà T có tham gia 02 phần, hụi mãn vào tháng 7 năm 2020, bà T đã lĩnh hụi vào ngày 28/11/2018 được số tiền 86.500.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.500.000 đồng, bà T còn 84.000.000 đồng, ngày 28/12/2018 bà T lĩnh hụi được số tiền 88.400.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.500.000 đồng, bà T còn 85.900.000 đồng. Sau đó, bà T có góp hụi đến tháng 5/2019 thì bà T không góp hụi nữa, bà G góp thay 13 lần, cho 02 phần, mỗi phần 5.000.000 đồng (13 lần x 02 phần x 5.000.000 đồng = 130.000.000 đồng) thành tiền là 130.000.000 đồng.
Dây hụi ngày 27/9/2018 âm lịch nhằm ngày 04/11/2018, bà G tổ chức hụi tháng, có 18 người tham gia, gồm 23 phần, mỗi phần là 5.000.000 đồng, bà T có tham gia 02 phần, hụi mãn vào tháng 9 năm 2020, bà T đã lĩnh hụi vào ngày 4/11/2018 được số tiền 78.750.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.500.000 đồng, bà T còn 76.250.000 đồng, ngày 01/02/2019 bà T lĩnh hụi được số tiền 78.400.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.500.000 đồng, bà T còn 75.900.000 đồng. Sau đó, bà T có góp hụi đến tháng 5/2019 thì bà T không góp hụi nữa, bà G góp thay 15 lần, cho 02 phần, mỗi phần 5.000.000 đồng (15 lần x 02 phần x 5.000.000 đồng = 150.000.000 đồng) thành tiền là 150.000.000 đồng.
Dây hụi ngày 27/9/2018 âm lịch nhằm ngày 04/11/2018, bà G tổ chức hụi tháng, có 20 người tham gia, gồm 23 phần, mỗi phần là 5.000.000 đồng, bà T có tham gia 01 phần, hụi mãn vào tháng 9 năm 2020, bà T đã lĩnh hụi vào ngày 4/11/2018 được số tiền 82.500.000 đồng, trừ tiền đầu T cho chủ hụi 2.500.000 đồng, bà T còn 80.000.000 đồng. Sau đó, bà T có góp hụi đến tháng 5/2019 thì bà T không góp hụi nữa, bà G góp thay 15 lần, cho 01 phần, mỗi phần 5.000.000 đồng (15 lần x 01 phần x 5.000.000 đồng = 75.000.000 đồng) thành tiền là 75.000.000 đồng.
Do đó, bà G khởi kiện yêu cầu bà T, ông Hân liên đới trả tổng số tiền còn nợ là 511.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi suất.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 12 tháng 06 năm 2020 bị đơn bà Nguyễn Thị Hiền T trình bày: Từ năm 2016 đến 2019 có vay tiền rất nhiều lần của bà G, do chị trực tiếp giao dịch, các bên không có gặp trực tiếp mà giao dịch qua điện thoại thì bà G hoặc con gái bà G đem tiền đến nhà, nếu bà G không đem tiền đến nhà được thì bà viết biên nhận đưa cho ông Nguyễn Văn Hào là xe hon da ôm đến nhà bà G để nhận tiền. Việc trả lãi cũng vậy, do bà G đến nhà nhận hoặc nhờ ông Hào đem xuống giao cho bà G. Còn việc bà G khởi kiện bà tham gia hụi là hoàn toàn không có. Nay không đồng ý theo yêu cầu của bà G.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 05 tháng 06 năm 2020 và tại phiên tòa bị đơn anh Phạm Ngọc H trình bày: Thừa nhận vợ ông là Nguyễn Thị Hiền T có vay tiền rất nhiều lần của bà G, do vợ ông trực tiếp giao dịch. Đến ngày 26/06/2019 vợ ông đã chốt nợ với bà G thì chỉ còn nợ vay số tiền 275.000.000 đồng. Ngoài ra vợ chồng ông không có tham gia hụi với bà G. Nay không đồng ý theo yêu cầu của bà G.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 22/2020/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Tân Hưng căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 288, 471 và Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị định số 19/2019/NĐ – CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ; Điều 26, 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tuyên xử:
Không chấp nhận đơn khởi kiện của bà Phạm Thị G yêu cầu bà Nguyễn Thị Hiền T, ông Phạm Ngọc H liên đới trả số tiền “Hụi” là 511.000.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí; quyền kháng cáo;
quyền yêu cầu, nghĩa vụ và thời hiệu thi hành án.
Ngày 31/12/2020, bà Phạm Thị G kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà G.
Tại phiên tòa phúc thẩm: bà G không rút đơn khởi kiện và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án; ông Hân có ý kiến trình bày thống nhất với các ý kiến đã trình bày ở cấp sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu ý kiến:
Về tính hợp lệ của kháng cáo: đơn kháng cáo làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về chấp hành pháp luật: kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.
Về giải quyết yêu cầu kháng cáo:
Bà T, ông Hân không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà G và không thừa nhận có tham gia chơi hụi do bà G làm chủ hụi. Bà G cung cấp danh sách hụi có tên bà T, ông Hân nhưng không có chữ ký, những người làm chứng khai biết được bà T, ông Hân tham gia hụi là do bà G nói lại, không trực tiếp chứng kiến việc bà T, ông Hân mở hụi, lĩnh hụi hoặc góp hụi, còn ông Hào thừa nhận có nhận tiền từ bà G đem về cho bà T và từ bà T giao cho bà G nhưng ông Hào không biết việc giao dịch giữa các bên, không biết là tiền gì. Bà G không còn chứng cứ gì khác để chứng minh bà T, ông Hân còn nợ tiền hụi 511.000.000 đồng. Mặt khác, ông Hân cung cấp 01 tờ giấy xác nhận do bà G viết ngày 26/06/2019 thể hiện bà T chỉ còn nợ bà G 275.000.000 đồng. Phần nợ này bà G đã khởi kiện được Tòa án giải quyết xong. Vì vậy, kháng cáo của bà G không có căn cứ chấp nhận, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về thủ tục tố tụng:
[1] Tòa án cấp sơ thẩm xác định thẩm quyền Tòa án giải quyết, quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng và xét xử theo trình tự sơ thẩm là phù hợp với quy định tại các Điều 26, 35, 39, 68 và 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, bản án sơ thẩm đảm bảo thủ tục tố tụng.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà G có đơn xin xét xử vắng mặt, ông Hân có mặt, bà T đã được tống đạt hợp lệ. Do đó Tòa án tiến hành xét xử theo trình tự phúc thẩm là phù hợp quy định tại Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[3] Xét kháng cáo của bà Phạm Thị G thấy rằng:
[4] Bà G khởi kiện yêu cầu bà T, ông Hân phải liên đới trả tiền nợ hụi là 511 triệu đồng vì cho rằng bà T, ông Hân tham gia góp hụi, bà G là chủ hụi đã góp thay phần hụi chưa góp của bà T, ông Hân. Bà T và ông Hân thì trình bày ông bà có vay tiền của bà G nhiều lần và đến ngày 26/6/2019 bà G có viết biên nhận xác nhận ông bà chỉ còn nợ tiền vay của bà G là 275 triệu đồng, mọi giấy tờ khác không còn giá trị nữa và sau đó đã thi hành xong bản án liên quan đến số tiền này, ngoài ra không có tham gia hụi với bà G.
[5] Bà G có cung cấp cho Tòa án danh sách các hụi viên tham gia các dây trong đó có tên của bà T, ông Hân nhưng không có chữ ký của bà T, ông Hân và ông Hân, bà T cũng không thừa nhận các bản danh sách này; bà G cung cấp lời khai của những người tham gia chơi hụi và họ khai chỉ nghe bà G nói bà T, ông Hân tham gia hụi, không trực tiếp chứng kiến; bà G cung cấp lời khai của ông Hào và ông Hào khai có nhận tiền từ bà G đưa cho bà T, từ bà T đưa cho bà G nhưng ông không biết tiền gì, bao nhiêu. Ngoài ra, bà G không cung cấp thêm chứng cứ gì khác.
[6] Như vậy với những tình tiết, giấy tờ, lời khai của những người làm chứng nêu trên, xét thấy đây không phải là chứng cứ chứng minh bà T và ông Hân có tham gia chơi các phần hụi do bà G làm chủ hụi. Do vậy, việc bà G khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền nợ hụi 511 triệu đồng là không có cơ sở, bản án sơ thẩm xử bác yêu cầu của bà G là có căn cứ. Bà G kháng cáo nhưng không cung cấp thêm chứng cứ nào khác nên không được chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.
[7] Bà G phải chịu án phí phúc thẩm do bị bác yêu cầu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị G.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 22/2020/DS-ST ngày 18 tháng 12 năm 2020 của Toà án nhân dân huyện Tân Hưng.
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 148, 483 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ; Điều 26, 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị G về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị Hiền T và ông Phạm Ngọc H phải liên đới trả số tiền “Hụi” là 511.000.000 đồng (năm trăm mười một triệu đồng).
2. Về án phí:
- Bà Phạm Thị G phải chịu 24.440.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 12.780.000 đồng theo biên lai số 0008131 ngày 19/02/2020 và biên lai số 0005707 ngày 03/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Hưng; bà G còn phải nộp tiếp 11.660.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Bà Phạm Thị G phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0005767 ngày 31/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Hưng; bà G đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 181/2021/DS-PT ngày 26/05/2021 về tranh chấp hợp đồng góp hụi
Số hiệu: | 181/2021/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 26/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về