Bản án 181/2020/HSST ngày 08/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 181/2020/HSST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 08 tháng 12 năm 2020, tại phòng xử án Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 129/2020/TLST-HS ngày 01/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 246/QĐXXST-HS ngày 10/11/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 375/2020/HSST-QĐ ngày 25/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngân Văn Đ, tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 04 tháng 5 năm 1975, tại: Huyện QP, tỉnh Nghệ An. Nơi đăng ký HKTT: Bản Nóng, xã TL, huyện QP, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 3/12; đoàn thể: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đang bị đình chỉ sinh hoạt đảng có thời hạn; con ông: Ngân Văn H, sinh năm 1941 và con bà Ngân Bà H, sinh năm 1942; anh chị em ruột: có 10 anh em, Ngân Văn Đ là con thứ 4; vợ: Quang Thị P, sinh năm 1972 và có 2 con, con đầu sinh năm 1999, con thứ hai sinh năm 2002; hiện đều trú tại: Bản Nóng, xã TL, huyện QP, tỉnh Nghệ An; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo Ngân Văn Đ bị bắt, tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 28/4/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thị Thoa, văn phòng luật sư Cao Trí - Đoàn luật sư tỉnh Nghệ An – có mặt.

Người làm chứng:

- Ông Phạm Văn V, sinh năm 1956 – vắng mặt.

Nơi cư trú: Xóm 9, xã DY, huyện DC, tỉnh Nghệ An

- Anh Thái Văn C, sinh năm 1979 – có mặt.

Nơi cư trú: Xóm Liên Hợp, xã TL, huyện QP, tỉnh Nghệ An

- Chị Quang Thị P, sinh năm 1972 – có mặt.

Nơi cư trú: Bản Nóng, xã TL, huyện QP, tỉnh Nghệ An.

- Anh Ngân Văn H, sinh năm 1991 – vắng mặt.

Nơi cư trú: Bản Nóng, xã TL, huyện QP, tỉnh Nghệ An.

Người phiên dịch: Ông Sầm Văn C, sinh năm 2001 (dân tộc Thái) – có mặt. Nơi cư trú: Bản Pào, xã Quang Phong, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 02 giờ 00 phút, ngày 28/4/2020 có một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ gọi điện thoại cho Ngân Văn Đ đặt vấn đề thuê Đ vận chuyển ma túy xuống ngã ba Yên Lý, xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An thì Đ đồng ý. Hai người thống nhất với nhau Đ nhận hàng ở khu vực chợ thuộc địa bàn xóm Liên Hợp, xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An rồi vận chuyển xuống ngã ba Yên Lý, huyện Diễn Châu thì sẽ có người tự liên lạc và đến nhận ma túy rồi trả tiền công cho Đ 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng). Sau khi bàn bạc xong, Đ ra khu vực chợ thuộc xóm Liên Hợp đợi nhận ma túy. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày có một nam thanh niên đi xe máy đến gặp đưa cho Đ một bì xác rắn màu vàng bên trong chứa gạo và ba gói ma túy đá. Ngân Văn Đ cầm bì xác rắn, rồi điện cho xe khách H Hoa, biển kiểm soát 37B - 00858 đến đón. Khi đi xuống đến đoạn đường Km 0-600m QL 48 thuộc xóm 9, xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An vào khoảng 06 giờ 30 phút, cùng ngày, thì Đ xuống xe để đợi người đến nhận ma túy thì bị Tổ công tác Công an huyện Nghi Lộc phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong bì xác rắn màu vàng chứa gạo và ba gói ni lông màu vàng, bên trong mỗi gói đều chứa các chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy); đã tiến hành lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại kết luận giám định số 573/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 04/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Ba mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Ngân Văn Đ đều là ma túy (Methamphetamine). Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của Ngân Văn Đ có tổng khối lượng là 2.867,63 gam.

Tại bản cáo trạng số 161/CT/VKS - P1 ngày 13 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo Ngân Văn Đ ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An để xét xử về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Ngân Văn Đ mức án tử hình về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo do có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

Về vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS; điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự Tịch thu tiêu hủy 2637,38 gam ma túy (Methamphetamine) còn lại sau khi đã lấy mẫu đi giám định.

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì xác rắn màu vàng, bên trong chứa 03 kilogam gạo.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel thu giữ của Ngân Văn Đ.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa: Thống nhất về tội danh như Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo Ngân Văn Đ là người dân tộc thiểu số, kém hiểu biết pháp luật nên đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được vận chuyển ma túy là vi phạm pháp luật, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An; hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các quyết định tố tụng được ban hành đúng quy định, đúng thẩm quyền.

[2] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo khai rằng: Do khi mới bị bắt do hoảng sợ nên đã khai chưa đúng. Thực tế là do biết bị cáo chuẩn bị đi xuống V để hỏi chế độ cho người bị bệnh tâm thần, Ngân Văn H đã gửi cho vợ bị cáo là Quang Thị P 01 bì gạo kèm theo 300.000 đồng tiền công, 01 thẻ cào điện thoại mệnh giá 20.000 đồng và 01 sim điện thoại nhờ bị cáo đem xuống cho người thân ở ngã 3 Yên Lý, bị cáo không biết bên trong chứa ma túy nhưng không có căn cứ để chứng minh, bị cáo thừa nhận khi bị bắt bì gạo bên trong có chứa ma túy là của bị cáo đem xuống đang chờ người đến lấy. Số tiền 300.000 đồng, thẻ cào và sim điện thoại là H đưa để bị cáo trả tiền vé xe liên lạc. Tại phiên tòa vợ bị cáo là chị Quang Thị P thừa nhận trước đó Ngân Văn H là cháu của Đ đã đến lấy tại nhà của vợ chồng chị 01 bì gạo đem đi, H có đem cho chị 300.000 đồng, 01 thẻ cào điện thoại mệnh giá 20.000 đồng và 01 sim điện thoại, nhưng sau đó H đã đến lấy lại trước ngày Đ bị bắt, chị không đưa cho Đ bất cứ vật gì. Khi Đ đi xuống ngã ba Yên Lý thì chị không biết. Đ không lấy ở nhà đi vật gì cả. Theo lời khai của anh Thái Văn C là lái xe khách H Hoa thì vào ngày 28/4/2020 anh là lái xe khách nhà xe H Hoa chạy theo tuyến cố định từ Quế Phong đi V. Khi gần đến ngã ba Yên Lý thì anh có hỏi Đ đi đâu thì Đ nói xuống bắt xe đi Hà Nội nên anh đã dừng xe tại ngã ba Yên Lý và hướng dẫn cho Đ bắt xe đi Hà Nội, khi xuống Đ có đem theo một bì xác rắn màu vàng nhưng không biết bên trong chứa gì, sau này anh mới nghe nói Đ bị bắt vì vận chuyển ma túy.

Xét lời khai của bị cáo, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 28/4/2020, Ngân Văn Đ đi xe khách H Hoa, biển kiểm soát 37B - 00858 vận chuyến ba gói ma túy (Methamphetamine) dạng đá, có tổng khối lượng là 2.867,63 gam từ huyện Quế Phong xuống ngã ba Yên Lý, huyện Diên Châu, tỉnh Nghệ An cho một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ với tiền công 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng). Khoảng 06 giờ 30 phút, cùng ngày, khi đến Km 0-600m QL 48 thuộc xóm 9, xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An thì Ngân Văn Đ xuống xe để đợi người đến nhận ma túy thì bị Tổ công tác Công an huyện Nghi Lộc phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 4 điều 250 BLHS.

[3] Vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, bị cáo biết tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa P, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với số lượng ma túy lớn. Vì vậy cần lên mức án nghiêm khắc nhất, cần thiết phải loại bỏ bị cáo vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội. Xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình thể hiện sự ăn năn hối cải, bố bị cáo là người có công được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 2, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS. Nhưng hành vi mà bị cáo thực hiện nếu không phát hiện kịp thời sẽ gây hậu quả lớn cho xã hội. Do đó việc loại bỏ vĩnh viễn bị cáo là cần thiết và tương xứng với hành vi mà bị cáo gây ra.

[4] Bị cáo không có tài sản gì lớn, hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông thuê Ngân Văn Đ vận chuyển ma túy từ huyện Quế phong xuống ngã ba Yên lý, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Do Đ không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, xác minh làm rõ.

[6] Trong thời gian truy tố, Viện KSND Tỉnh Nghệ An tiến hành phúc cung bị can Ngân Văn Đ cũng như tại phiên tòa. Ngân Văn Đ khai nhận số ma túy khi bắt giữ Ngân Văn Đ do cơ quan điều tra thu giữ là của Ngân Văn H, trú tại xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Ngân Văn H là cháu ruột của Đ, H nhờ Ngân Văn Đ vận chuyển xuống ngã 3 Yên Lý giao cho người khác, Viện KSND Tỉnh Nghệ An đã có văn bản yêu cầu Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An phối hợp xác minh. Kết quả điều tra xác minh, thì Quang Thị P là vợ Ngân Văn Đ không thừa nhận việc Ngân Văn H đến nhà đưa số tiền 300.000đ, 01 sim điện thoại, 01 thẻ cào 20,000đ, 01 bì gạo cho P. Mặt khác Ngân Văn H không có mặt tại xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An từ tháng 3/2020 đến nay. Vì vậy, không đủ căn cứ để khẳng định số ma túy trên là của Ngân Văn H, như lời khai của Ngân Văn Đ. Đề nghị cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An tiếp tục xác minh làm rõ đối với Ngân Văn H, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Về vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy 2.637,38 gam ma túy (Methamphetamine) còn lại sau khi đã lấy sử dụng hết 230,25 gam trong giám định.

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì xác rắn màu vàng, bên trong chứa 03 kilogam gạo thu giữ của Ngân Văn Đ không còn giá trị sử dụng.

Tịch thu, hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu xanh đen có số IMEI 359623092612643 đã qua sử dụng thu giữ của Ngân Văn Đ;

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ngân Văn Đ tử hình về tội "Vận chuyển trái phép chất ma túy". Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2020. Tiếp tục giam giữ bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy 2.637,38 gam ma túy (Methamphetamine) còn lại sau khi đã lấy 230,25 gam sử dụng hết trong giám định.

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) bì xác rắn màu vàng, bên trong chứa 03 kilogam gạo không còn giá trị sử dụng.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu xanh đen có số IMEI 359623092612643 đã qua sử dụng thu giữ của Ngân Văn Đ;

(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An, có đặc điểm được phản ánh tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an tỉnh Nghệ An và Cục thi hành án dân sự tỉnh Nghệ An ngày 11/8/2020).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Ngân Văn Đ phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Nếu bị cáo không kháng cáo thì có quyền làm đơn gửi Chủ tịch nước xin ân giảm án tử hình trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày hết hạn kháng cáo.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2020/HSST ngày 08/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:181/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về