Bản án 181/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 181/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 23 tháng 9 năm 2019 tại Toà án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý: 1049/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2019/QĐXX-ST ngày 13/8/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Nguyễn Quan Tr, sinh năm 1995; địa chỉ cư trú: Khu phố Tân H, phường Đ, thị xã D, tỉnh Bình Dương; vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1992; địa chỉ cư trú: ấp C, xã H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và đơn xin vắng mặt ngày 13/8/2019, nguyên đơn chị Phạm Nguyễn Quan Tr trình bày:

Chị và anh Nguyễn Tấn Đ chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Hòa An (nay là phường Hóa An), thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 152/2013, quyền số 01/2013, ngày 15/11/2013. Quá trình chung sống ban đầu hạnh phúc nhưng đến đầu năm 2019 phát sinh mâu thuẫn do anh Đ không đi làm, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu và sử dụng ma túy đá; thường xuyên về đánh mẹ ruột và vợ. Chị xác định mâu thuẫn giữa hai bên trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không Đ được nên đề nghị Tòa án cho chị ly hôn với anh Đ.

Về con chung: Chị Tr xác định chị và anh Đ có một con chung tên Nguyễn Tấn Ph, sinh ngày 08/6/2014. Chị Tr yêu cầu được nuôi cháu Ph, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con.

Chị Tr xác định không có tài sản chung, nợ chung với anh Đ. Do bận công việc nên bà chị nghị vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

Bị dơn anh Nguyễn Tấn Đ không đến Tòa án làm việc nên không có lời khai.

Tại phiên tòa hôm nay, ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án: đã thực hiện đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thụ lý vụ án đúng thẩm quyền; xác định quan hệ pháp luật, tư cách của đương sự và thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án: Từ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự, có đủ căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn được tống Đ hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không đến Tòa án làm việc thể hiện việc từ bỏ quyền của mình về hòa giải đoàn tụ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Tr đối với anh Đ, giao con chung cho chị Tr nuôi dưỡng, không xem xét việc cấp dưỡng vì chị Tr không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Tố tụng:

- Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Chị Phạm Nguyễn Quan Tr khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Tấn Đ và yêu cầu được nuôi con chung. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định chị Tr là nguyên đơn, anh Đ là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Nguyễn Tấn Đ có địa chỉ thường trú và cư trú tại phường H, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. C ăn cứ vào khoản 01 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định yêu cầu khởi kiện của chị Tr thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về thủ tục tố tụng khác: Chị Phạm Nguyễn Quan Tr có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Tấn Đ đã được tống Đ hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Chị Phạm Nguyễn Quan Tr và anh Nguyễn Tấn Đ chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã H (nay là phường H), thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số số 152/2013, quyền số 01/2013, ngày 15/11/2013. Đối chiếu quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định hôn nhân của chị Tr và anh Đ là hợp pháp.

Chị Tr xác định sau quá trình chung sống ban đầu thì hai bên phát sinh mâu thuẫn do anh Đ không đi làm, thường xuyên tụ tập bạn bè ăn nhậu và sử dụng ma túy đá; thường xuyên về đánh mẹ ruột và vợ. Từ đầu năm 2019 đến nay vợ chồng thường xuyên cãi vã, không quan tâm nhau, sống ly thân đến nay.

Xét thấy: Tại biên bản xác minh ngày 18 tháng 7 năm 2019 (bút lục 38), Ủy ban nhân dân phường H xác định không biết mâu thuẫn của chị Tr và anh Đ vì các đương sự không trình báo, không yêu cầu hòa giải. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa chị Tr và anh Đ là có thật, trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không Đ được, hiện nay anh chị sống ly thân nhau. Do đó cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phạm Nguyễn Quan Tr đối với anh Nguyễn Tấn Đ.

Về con chung: Chị Tr khai giữa chị và anh Đ có 01 (một) con chung tên Nguyễn Tấn Ph, sinh ngày 08/6/2014. Chị Tr yêu cầu được nuôi cháu Ph, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy hiện nay cháu Phúc đang sống cùng chị Tr, chị Tr có thu nhập ổn định để nuôi con. Do đó cần chấp nhận yêu cầu của chị Tr, giao cháu Phúc cho chị Tr tiếp tục nuôi dưỡng, không xem xét trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung của anh Đ do chị Tr không có yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Tr khai không có, anh Đ không có lời khai về nội dung này nên Tòa án không xem xét, giải quyết. Trường hợp sau này anh Đ có tranh chấp thì có quyền khởi kiện bằng một vụ án độc lập theo quy định cua pháp luật.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

Về án phí: Nguyên đơn chị Phạm Nguyễn Quan Tr phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, Khoản 4 Điều 147, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Nguyễn Quan Tr đối với anh Nguyễn Tấn Đ.

Cho chị Phạm Nguyễn Quan Tr được ly hôn anh Nguyễn Tấn Đ.

2. Về con chung: Giao con chung của chị Phạm Nguyễn Quan Tr và anh Nguyễn Tấn Đ là cháu Nguyễn Tấn Ph, sinh ngày 08/6/2014 cho chị Tr trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Tr, anh Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Tr khai không có nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phạm Nguyễn Quan Tr phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí chị Tr đã nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004989 ngày 13/5/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; chị Tr đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Chị Phạm Nguyễn Quan Tr, anh Nguyễn Tấn Đ được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2019/HNGĐ-ST ngày 23/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:181/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về