Bản án 181/2018/HS-ST ngày 13/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 181/2018/HS-ST NGÀY 13/07/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 162/2018/HSST ngày 11 tháng 6 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 177/2018/HSST-QĐ ngày 25/6/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 51 /2018/HSST-QĐ ngày 05/7/2018 đối với bị cáo:

Đoàn Văn T, sinh năm 1990 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Xóm 5 xã M, huyện Q, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Đoàn Văn T (đã chết) và con bà Phan Thị H, sinh năm 1968; bị cáo có 01 em ruột sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không có.

Nhân thân:

+ Ngày 18/9/2014 Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 314, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/11/2014.

+ Ngày 29/7/2017 Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 151.

Bị cáo đang chấp hành quyết định thi hành hình phạt tù số 260/2017/QĐ- CA ngày 05/09/2017 của Chánh án tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương tại trại giam An Phước. Bị cáo có đơn xin xét xử vắng mặt.

Người bị hại: Anh Cao Xuân H, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn 18 xã R, huyện S, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Quốc S, sinh năm 1960; địa chỉ: Thôn 7 xã R, huyện S, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

Người tham gia ttụng hác:

- Người làm chứng: Chị Hà Thị H, sinh năm 1993; thường trú: Khu phố L, phường H, thị xã K, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 5 giờ ngày 13/3/2017, bị cáo T được người tên Cường (không rõ nhân thân) rủ đi trộm cắp tài sản, Cường điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter (không rõ biển số) chở T trên các tuyến đường thuộc địa bàn thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương để thực hiện việc trộm cắp nhưng không thực hiện được. Đến 6 giờ 30 cùng ngày Cường chở T về phòng ở trọ của T địa chỉ 333/37 khu phố Chiêu Liêu, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Cả hai dừng xe bên ngoài dãy trọ, T đứng cảnh giới Cường đi bộ vào trong dãy trọ tiếp cận 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 69H1-018.91 đang dựng trước phòng ở trọ của T, Cường dùng chìa khóa mang theo mở khóa xe mô tô, nổ máy điều khiển xe đến khu vực cầu vượt Sóng Thần, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương bán cho người đàn ông không rõ nhân thân được 6.500.000 đồng, T điều khiển xe của Cường đến đón Cường và được chia 3.000.000 đồng.

Tại biên bản kết luận định giá tài sản số 354/BB.ĐG ngày 20/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Dĩ An kết luận xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter có màu vàng đen, biển số 69H1-018.91 trị giá 21.000.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Xe mô tô Cường, T chiếm đoạt của anh Cao Xuân H không thu hồi được, anh H có yêu cầu bồi thường.

Cáo trạng số 167/CT-VKS ngày 09/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Đoàn Văn T về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo T từ 12 tháng đến 18 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo T bồi thường cho người bị hại Cao Xuân H số tiền 21.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Đoàn Văn T thực hiện hành vi phạm tội ngày 13/3/2017, bị khởi tố điều tra về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tuy nhiên đối chiếu Điều 173 về tội Trộm cắp tài sản Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực ngày 01/01/2018 có khung hình phạt nhẹ hơn so với Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009. Vì vậy, Viện kiểm sát áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 để truy tố, xét xử đối với bị cáo T là phù hợp pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án: Qua lời khai bị cáo Đoàn Văn T tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại Cao Xuân H thể hiện. Khoảng 5 giờ ngày 13/3/2017, bị cáo T được người tên Cường (không rõ nhân thân) rủ đi trộm cắp tài sản nhưng không thực hiện được. Vào lúc 6 giờ 30 cùng ngày Cường chở T về phòng ở trọ của T địa chỉ 333/37 khu phố Chiêu Liêu, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Cả hai dừng xe bên ngoài dãy trọ, T đứng cảnh giới Cường đi bộ vào trong dãy trọ tiếp cận 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 69H1-018.91 đang dựng trước phòng ở trọ của T, Cường dùng chìa khóa xe mang theo mở khóa xe mô tô, nổ máy điều khiển xe đến khu vực cầu vượt Sóng Thần, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương bán xe cho người đàn ông không rõ nhân thân được 6.500.000 đồng, T điều khiển xe của Cường đến đón Cường và được chia 3.000.000 đồng. Xe mô tô đã bán không thu hồi được qua định giá trị giá xe 21.000.000 đồng.

Điều 173 Tội trộm cắp tài sản, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người hác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 ồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo hông giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

Như vậy, bị cáo Đoàn Văn T lén lút chiếm đoạt tài có trị giá 21.000.000 đồng của anh Cao Xuân H vào ngày 13/3/2017. Hành vi trên của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Bản cáo trạng số 167/CT – VKS ngày 09/6/2018 của Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như bản luận tội của Kiểm sát viên ngày hôm nay đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm do bị cáo T thực hiện là ít nghiêm trọng, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo thực hiện phạm tội một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của anh Cao Xuân H được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo T mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ tội phạm bị cáo thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội cũng như có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự .

Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân xấu thể hiện việc không có việc làm ổn định, bị cáo nhiều lần thực hiện việc trộm cắp tài sản đã bị xử phạt tù, sau khi chấp hành hình phạt tù về địa phương bị cáo tiếp tục thực hiện việc trộm cắp tài sản. Thể hiện sự không hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Đoàn Văn T cùng người tên Cường chiếm đoạt xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter màu vàng đen, biển số 69H1 – 018.91 của anh Cao Xuân H, xe không thu hồi được qua định giá xe có trị giá 21.000.000 đồng, anh H yêu cầu được bồi thường. Do vậy, buộc bị cáo T có trách nhiệm bồi thường.

[5] Trong vụ án còn có người tên Cường (không rõ nhân thân) cùng tham gia trộm cắp tài sản cùng bị cáo T. Công an thị xã Dĩ An tách xác minh điều tra xử lý sau.

[6] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với bị cáo T cũng như trách nhiệm bồi thường dân sự. Xét quan điểm trên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm, án phí Dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

V các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ vào điểm h, i khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội khóa 14; khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đoàn Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù theo bản án số 151/2017/HSST ngày 29/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương buộc bị cáo T phải chấp hành chung hình phạt của hai bản án là 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/3/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ dung năm 2017. Điều 584, 585, 586 và 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Đoàn Văn T bồi thường cho bị hại anh Cao Xuân H số tiền 21.000.000 đồng (hai mươi mốt triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14.

Bị cáo Đoàn Văn T phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm và 1.050.000 đồng (một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2018/HS-ST ngày 13/07/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:181/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về