TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 181/2018/HS-ST NGÀY 03/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 178/2018/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Phạm Văn T, sinh năm 1987 tại Hà Tĩnh. Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C, sinh năm 1959 và bà Ngô Thị T, sinh năm 1963; bị cáo có vợ tên Ngô Thị H, sinh năm 1985 và 01 con sinh năm 2016; tiền sự: Không có.
Tiền án: Bản án số 240/2017/HSST ngày 28/7/2017 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bị bắt, tạm giam ngày 18/6/2018. Có mặt.
Bị hại: Ông Danh Quốc T1, sinh năm 1998; trú tại: Khu phố Đ, thị trấn T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. Có đơn xin giải quyết vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Văn P, sinh năm 1993; trú tại: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Có đơn xin giải quyết vắng mặt.
Người làm chứng:
1/ Ông Nguyễn Hoàng T2, sinh năm 1987; nơi cư trú: 1/8 khu phố Đ3, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
2/ Bà Trần Thị Trúc P, sinh năm 1999; trú tại: Khu phố X, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 05 giờ ngày 18/6/2018, đối tượng H (không xác định được nhân thân, lai lịch) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen (không biển số) chở theo bị cáo Phạm Văn T đi từ ngã tư 550 đến địa bàn phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương để tìm tài sản trộm cắp. Khi đến khu nhà trọ tại địa chỉ Ô 28 lô DC10, Khu phố X, phường A, thị xã T, H phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 67F1 – 195.63 của ông Danh Quốc T1 đang dựng trước hành lang khu trọ không người trông coi nên H dừng xe bên ngoài và kêu T đứng ngoài cảnh giới, H đi bộ vào trong để trộm xe, khoảng 20 phút sau H đẩy 01 xe mô tô biển số 67F1 – 195.63 trên ổ khóa xe không có chìa khóa đi ra và kêu T điều khiển chạy theo H, còn H điều khiển xe Exciter. Khi cả hai đến đường N thuộc khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra của Công an phường B phát hiện truy đuổi, bị cáo T tăng ga bỏ chạy bị té và bị bắt giữ cùng tang vật.
Riêng đối tượng H đã bỏ trốn.
Theo biên bản định giá tài sản ngày 19/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Thuận An, tài sản là 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 67F1 – 195.63 có giá trị 9.500.000đồng (chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Tại bản Cáo trạng số 190/QĐ/KSĐT ngày 10/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hâu qua hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị Phạm Văn T từ 01 (một) năm tù đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 67F1 – 195.63: Đây là tài sản hợp pháp của ông Danh Quốc T1 nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Danh Quốc T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lê Văn P không có yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:
Ngày 18/6/2018, tại khu nhà trọ Ô 28 lô DC10, Khu phố X, phường A, thị xã T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Phạm Văn T cùng đối tượng H thực hiện hành vi lén lút nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người bị hại Danh Quốc T1 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 67F1 – 195.63; Theo Biên bản định giá tài sản của Hội đồng định giá ngày 19/6/2018 xác định 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 67F1 – 195.63 có giá trị 9.500.000đồng (chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Do đó, Cáo trạng truy tố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người bị hại là vi phạm pháp luật Hình sự nhưng vì lòng tham, muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt, hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo nhiều lần bị Tòa án xử phạt về các hành vi trộm cắp tài sản của người khác nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn thực hiện hành vi phạm tội; Ngoài ra, sau khi bị bắt bị cáo còn khai gian dối tên là Huỳnh Văn T nhằm mục đích gây khó khăn cho quá trình điều tra, che giấu tiền án của mình trước đây, thể hiện bị cáo là người không ăn năn hối cải, khó cải tạo giáo dục. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Đối với đối tượng H hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị Tòa án nhân dân quận T, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp “Tái phạm” được quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn được quy định tại Điểm h, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại ông Danh Quốc T1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Lê Văn P không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, biển số 67F1 – 195.63: Đây là tài sản hợp pháp của ông Danh Quốc T1 nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/6/2018.
2. Về án phí:
Buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.
Bản án 181/2018/HS-ST ngày 03/10/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 181/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về