Bản án 179/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 179/2019/HS-ST NGÀY 04/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 144/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 162/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 68/2019/QĐST-HS ngày 19/9/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Văn Đ, sinh năm 1983. Tại: Bình Dương. Nơi ĐKHKTT: Xã Đ, huyện Đ1, tỉnh Lâm Đồng. Tạm trú: Phường H, thành phố M, tỉnh Bình Duơng. Trình độ học vấn: 02/12. Nghề nghiệp: Làm thuê; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Võ Văn H (đã chết) và bà Bùi Thị H1; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 15/3/2019 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Hồng T, sinh năm 1998. HKTT: Xã NH, huyện Đ2, tỉnh Cà Mau. Tạm trú: Phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Văn Đ là đối tượng nghiện ma túy từ tháng 11/2018. Đông sống chung như vợ chồng với chị Nguyễn Hồng T, Sinh năm 1998, ngụ tại: Xã N, huyện Đ2, tỉnh Cà Mau tại phòng trọ thuộc phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 11 giờ ngày 14/03/2019, trong lúc Võ Văn Đ đang ở phòng trọ thì nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng. Để thực hiện ý định, Đông điều khiển xe mô tô biển số 61Z4 - 58xx, nhãn hiệu: NAGOASI, màu: đỏ - đen - bạc, số máy: 0117xx, số khung: 0117xx đến quán cà phê G thuộc phường HL, thị xã B, tỉnh Bình Dương để gặp một thanh niên tên Ù (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) thì tên Ù đồng ý. Cùng lúc, người thanh niên tên Ù đưa cho Đ 01 (một) gói ny lon miệng hàn kín, bên trong có chứa ma túy; Đ đưa số tiền 500.000 đồng cho Ù rồi cất giấu gói ny lon, bên trong có chứa ma túy vào trong cốp xe mô tô biển số 61Z4 - 58xx. Ngay sau đó, Đ điều khiển xe mô tô biển số 61Z4 - 58xx đi về phòng trọ thuộc phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 17 giờ ngày 15/03/2019, Công an phường H phối hợp cùng Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thủ Dầu Một tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ của Đ thì phát hiện, bắt quả tang Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để trong cốp xe mô tô biển số 61Z4 - 58xx, thu giữ: 01 (một) gói ny lon miệng hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng; 01 (một) xe mô tô biển số biển số 61Z4 - 58xx, nhãn hiệu: NAGOASI, màu: đỏ - đen - bạc, có số máy: 0117xx, số khung: 0117xx.

Ngày 15/03/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một ra Quyết định trưng cầu giám định số 244/QĐ-CQ.CSĐT, trưng cầu giám định chất tinh thể màu trắng được đựng trong 01 (một) gói ny lon miệng hàn kín đã thu giữ của Võ Văn Đ. Ngày 18/03/2019, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương có bản kết luận giám định số 242/MT-PC09, kết luận mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,6456 gam, loại Methamphetamine.

Đối với nam thanh niên tên Ù đã bán ma túy cho Võ Văn Đ tại quán cà phê G thuộc phường HL, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Quá trình điều tra, Đ khai nhận Đ không rõ nhân thân, lai lịch của nam thanh niên tên Ù nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một không có căn cứ để điều tra, xử lý. Đối với Nguyễn Hồng T, sống như vợ chồng với Võ Văn Đ. Quá trình điều tra xác định, việc Đ tàng trữ trái phép chất ma túy thì Đ không nói cho chị T biết nên không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với chị T.

Đối với 01 (một) gói ny lon miệng hàn kín, bên trong có chứa ma túy, trọng lượng sau giám định là 0,4189 gam, loại Methamphetamine. Quá trình điều tra xác định, đây là vật chứng của vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 61Z4 - 58xx, nhãn hiệu: NAGOASI, màu: đỏ - đen - bạc, số máy: 0117xx, số khung: 0117xx đã thu giữ của Võ Văn Đ. Quá trình điều tra xác định xe mô tô biển số trên do bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1963, ngụ tại số phường BC, thị xã T, tỉnh Bình Dương đứng tên giấy chứng nhận đăng ký xe. Năm 2010, bà L đã bán lại xe cho cửa hàng xe máy ĐC do anh Phạm Văn Đ3, sinh năm 1974, ngụ tại phường HL, thị xã B, tỉnh Bình Dương làm chủ. Ngày 26 tháng 5 năm 2018, Cửa hàng xe máy ĐC đã bán lại cho chị Nguyễn Hồng T (chị T sống chung như vợ chồng với Đ) nhưng không làm thủ tục sang tên theo quy định. Do đây là vật chứng của vụ án nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

Cáo trạng số 159/CT-VKS-HS ngày 24/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Võ Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Võ Văn Đ, cán bộ niêm phong Lê Minh N và hình dấu đỏ công an phường H, thành phố M, bên trong chứa 01 gói nylon chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 0,4189 gam. Trả cho bà Nguyễn Hồng T 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng biển số 61ZA - 58xx, số khung 0117xx, số máy 0117xx (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động).

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 15/3/2019, Võ Văn Đ có hành vi cất giữ 0,6456 gam Methamphetamine tại nhà trọ thuộc phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương nhằm mục đích sử dụng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ...c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;. Như vậy, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có mẹ đã từng tham gia kháng chiến chống Mỹ được hưởng trợ cấp. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Võ Văn Đ, cán bộ niêm phong Lê Minh N và hình dấu đỏ công an phường H, thành phố M, bên trong chứa 01 gói nylon chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 0,4189 gam (theo kết luận giám định số 242/MT-PC09 ngày 18/3/2019). Trả cho bà Nguyễn Hồng T 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng biển số 61ZA - 58xx, số khung 0117xx, số máy 0117xx (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động).

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Võ Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Võ Văn Đ 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/3/2019.

3/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Võ Văn Đ, cán bộ niêm phong Lê Minh N và hình dấu đỏ công an phường H, thành phố M, bên trong chứa 01 gói nylon chứa ma túy, trọng lượng sau giám định 0,4189 gam (theo kết luận giám định số 242/MT-PC09 ngày 18/3/2019).

- Trả cho bà Nguyễn Hồng T 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng biển số 61ZA - 58xx, số khung 0117xx, số máy 0117xx (không kiểm tra chi tiết, tình trạng hoạt động).

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng s 155.19 ngày 24/7/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai hăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 179/2019/HS-ST ngày 04/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:179/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về