Bản án 178/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 178/2021/HS-ST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 194/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 195/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn N - sinh năm 1981 tại Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn 3, xã D (nay là phường D), thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt N; con ông Lê Văn H và bà Dương Thị H; bị cáo có vợ là Hoàng Thị T và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Lê Minh P - sinh năm 1990 Địa chỉ: SN 162 đường B, phường H, TP. T, tỉnh Thanh Hóa. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10h ngày 20/01/2021, sau khi ăn sáng và uống rượu Lê Văn N đi đến nhà nghỉ Thắng Lợi ở 32 Ỷ Lan, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa để thuê phòng với mục đích nằm nghỉ cho giải rượu. Khi tới nhà nghỉ N thấy tại bàn lễ tân không có người, N liền gọi "Có ai không" nhưng không có người trả lời. Nhìn xung quanh N thấy ở tiền sảnh của nhà nghỉ có 01 xe máy điện nhãn hiệu Dibao. N đứng quan sát một lúc và nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy điện mang đi bán. N đi lại tiền sảnh dắt xe máy điện đi ra khỏi nhà nghỉ, sau đó N dắt xe đi đến cửa hàng thu mua sắt vụn ở 01 Lý Nhân Tông, phường Đ, thành phố T. Tại đây N gặp chị Nguyễn Thị B, sinh năm 1957 trú tại đội 2, phường C, thành phố Ta là chủ của cửa hàng. Khi gặp chị B, N nói: "Em có xe máy điện của con gái nhưng không sử dụng nữa nên muốn bán". Chị B xem xe rồi trả giá mua 1 triệu đồng. N đồng ý bán. Sau đó chị B đưa cho N 1 triệu đồng. Đến 13h30' cùng ngày chị Lê Minh P chủ xe máy điện đi ra sảnh nhà nghỉ phát hiện xe máy điện của mình bị mất nên đến Công an phường Đ trình báo. Qua xác minh trên camera an ninh Công an phường Đ phát hiện thấy N là người đã dắt xe máy điện của chị P và dắt xe về phía cửa hàng thu mua phế liệu của chị B. Do đó Công an phường Đ đã đến cửa hàng thu mua phế liệu của chị B làm việc. Tại đây chị B đã tự nguyện giao nộp chiếc xe cho Công an phường Đ, thành phố T quản lý điều tra. Vụ việc được chuyển tới cơ quan CSĐT Công an thành phố T Tại bản Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS, ngày 27/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận: 01 xe máy điện nhãn hiệu Dibao màu đỏ đen BKS: 36MĐ1-56024 đăng ký ngày 18/2/2020 có trị giá 15.300.000 đồng.

Ngày 27/01/2021, N đến cơ quan CSĐT Công an thành phố T xin đầu thú và khai báo hành vi phạm tội của mình. Tại cơ quan CSĐT, N đã tự nguyện bồi thường số tiền 1.000.000 đồng cho chị B.

Quá trình điều tra cơ quan CSĐT xác định khi mua xe máy điện của N. Chị B không biết đó là tài sản do N phạm tội mà có nên không có căn cứ để xử lý về hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Vật chứng vụ án là chiếc xe máy điện nhãn hiệu Dibao BKS 36MDD1- 560.24 ngày 01/2/2021, cơ quan CSĐT Công an thành phố T đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe cho chủ sở hữu là anh Lê Minh P. Anh P đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Cáo trạng số 90/Ctr-VKS ngày 24/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, đã truy tố bị cáo Lê Văn N về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo N từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng tù.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được cùng các tài liệu, chứng cứ khác phản ánh trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Khoảng 10h00' ngày 20/01/2021, Lê Văn N đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt 01 xe máy điện nhãn hiệu Dibao BKS 36MĐ1- 560.24 trị giá 15.300.000 đồng của anh Lê Minh P để tại tiền sảnh của nhà nghỉ Thắng Lợi, số 32 đường Ỷ Lan, phường Đ, TP. Thanh Hóa.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, có đủ dấu hiệu cấu thành tội "Trộm cắp tài sản", tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS như Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật

[3] Về căn cứ quyết định hình phạt đối với bị cáo:

nh chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra không lớn; bị truy tố và xét xử về tội ít ngiêm trọng;

Nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự; lần đầu phạm tội, chưa bị xử lý hành chính;

Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, đầu thú, bị cáo là người thờ cúng liệt sĩ, được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ các căn cứ quyết định hình phạt như nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo và có xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì trước khi phạm tội lần này bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; và xét thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù vì bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

[4] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Bị hại là anh Lê Minh P đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường dân sự. Chị Nguyễn Thị B là người đã mua chiếc xe máy điện đã được trả lại 1.000.000 đồng và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự. Vì vậy không xem xét về vấn đề bồi thường dân sự đối với bị cáo N.

[5] Về vật chứng: chiếc xe máy điện nhãn hiệu Dibao BKS 36MĐ1-560.24 ngày 01/2/2021, đã được cơ quan CSĐT Công an thành phố T trả lại cho chủ sở hữu nên không xem xét để xử lý thêm.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn N phạm tội "Trộm cắp tài sản" Xử phạt Lê Văn N 13 (mười ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 26 (hai mươi sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Giao bị cáo Lê Văn N cho Ủy ban nhân dân phường TD, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa phối hợp cùng với gia đình bị cáo giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 178/2021/HS-ST ngày 23/04/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:178/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về