Bản án 178/2021/HS-PT ngày 02/07/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 178/2021/HS-PT NGÀY 02/07/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 02 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 161/2021/TLPT-HS ngày 04 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Lê H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cao L tỉnh Đồng Tháp.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê H, sinh ngày 29-9-2000 tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú (HKTT): Tổ XX, khóm X, phường X, thành phố Cao L, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê L, sinh năm 1973 và bà Phan Kim S, sinh năm 1974; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Chưa; tạm giam: Ngày 22- 9- 2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Ngọc K1, Nguyễn Văn Đ và Lê Anh K1 không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ ngày 31-01-2020, Phạm Quốc T và Bùi Phúc H đến tiệm hớt tóc Thanh H1 thuộc phường x, thành phố Cao L, tỉnh Đồng Tháp thì gặp Nguyễn Tuấn K. T và K ngồi hớt tóc nói chuyện qua lại một lúc thì dẫn đến cãi nhau. K nói: “Hớt tóc xong tao với mày thằng một cây chém nhau”. Nghe vậy, H gọi điện thoại cho Lê Vũ Trường G và Nguyễn Minh T chạy đến tiệm hớt tóc. Vì thấy trong tiệm có người lớn tiếng, nên chủ tiệm hớt tóc khuyên, thì cả nhóm bỏ về.

Trên đường về, T nhắn tin cho K hẹn xuống quán cà phê Không Tên thuộc khóm Mỹ H, phường X, thành phố Cao L để giải quyết mâu thuẫn hoặc đánh nhau bằng tay. K nhờ Nguyễn Văn Đ chở lại nhà Lê H, K kể lại cho H nghe sự việc và nhờ chở xuống nhà Trương Ngọc H1 thuộc phường X, thành phố Cao L, K hỏi mượn dao nhưng không nói đi đánh nhau nên H1 chỉ dao để cặp cánh cửa thì K vào lấy cất giấu vào trong người. Lúc này, Nguyễn Ngọc K1 gọi điện thoại rủ K uống cà phê, K nói đang có chuyện và hỏi có dao không đem lên cho K mượn thì K1 đồng ý và hẹn nhau tại quán cà phê Không Tên. K điện thoại cho Đại lại quán cà phê Không Tên đón K 1. H chở K lại quán cà phê Không Tên thì gặp K1 và Đ, K1 lấy con dao dưới yên xe là dao tự chế (dao hình cánh bướm), bề sống con dao uốn lượn có nhiều lỗ, cán dao bằng gỗ màu nâu đưa cho H cất giữ.

T điện thoại đến nói K lại quán Trà Chanh thuộc phường X, thành phố Cao L , nên K1 lấy dao dưới yên xe cất vào trong người rồi đi cùng xe với Đ , còn H thì chở K cùng chạy đến quán Trà Chanh.

Trước khi đi T gọi điện thoại cho Lê Anh K2 nói có hẹn với K để giải quyết mâu thuẫn, không nói mang theo dao và hẹn tại quán cà phê Không Tên. Sau khi nghe điện thoại, Khoa vào nhà lấy con dao tự chế bằng kim loại màu trắng dài 41cm (lưỡi dao dài 24cm, cán tròn bằng kim loại dài 17cm) cất giấu trong người chạy đến gặp T. Trên đường đi xuống quán cà phê Không Tên thì T gặp người tên H và bạn của H (không rõ nhân thân địa chỉ cụ thể) nên rủ đi cùng.

Đến 19 giờ 20 phút cùng ngày, nhóm của H gọi điện thoại cho T thì T nói đang ở quán cà phê Không Tên, nên K, H, K1 và Đ chạy đến gần quán cà phê Không Tên và nhìn thấy nhóm của T đang đứng trên đường Ngô Thì N thuộc khóm Mỹ Hưng, phường 3, thành phố Cao Lãnh. H, K và Khải liền cầm dao trên tay đi lại nhóm của T, còn Đ thì bỏ đi. K1 đứng gần K nói chuyện với T, H nói chuyện với H2, được một lúc thì K2 bước lại trên tay cầm dao tự chế bằng kim loại màu trắng dài 41cm nói chuyện dẫn đến K2 và H cãi nhau. K2 rủ H ra đường để chém nhau, cả hai bước ra đường, K2 chém H 01 cái không trúng, H chém K2 01 cái không trúng, trong lúc K2 đang quay người lại thì tay phải H cầm dao đâm thẳng phía trước trúng vào vùng bụng bên trái của Khoa 01 cái, Khoa ôm bụng chạy vào nhà dân, H đuổi theo, K và K2chạy theo kêu H dừng lại. Sau đó, K gọi điện thoại cho Đ lại rước, H chở K, Đ chở K2 cùng đi uống nước. Sau khi uống nước xong, H trả dao cho K2, trên đường về thì K2 đã ném 02 con dao xuống sông tại cầu Cần L1 thuộc xã An B , huyện Cao L , tỉnh Đồng Tháp. Còn riêng K1 được người dân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa Đồng Tháp, đến ngày 10-02-2020 thì K1 xuất viện. Sau khi sự việc xảy ra, Công an phường X, thành phố Cao L đến hiện trường thu giữ 01 con dao dài 41cm (lưỡi bằng kim loại dài 24cm màu trắng, cán tròn bằng kim loại dài 17cm, dao của Khoa) và báo cáo sự việc cho Công an thành phố Cao L đến xử lý. Đến ngày 26-02-2020, H và K đến Công an thành phố Cao L đầu thú.

Ngày 26-02-2020, gia đình của Lê H đã thỏa thuận bồi thường cho Lê Anh K1 105.000.000 đồng.

Theo Kết luận giám định pháp y về thương tích số 56/TgT ngày 27-02- 2020 của T tâm Pháp y tỉnh Đồng Tháp đối với Lê Anh K1: Vết thương thấu bụng vùng hông trái gây thủng hỗng tràng, đại tràng đã phẫu thuật khâu lỗ thủng, sẹo mổ cộng sẹo dẫn lưu vùng bụng lành, tỷ lệ tổn thương cơ thể của Lê Anh K1 do thương tích gây nên hiện tại là 57% (Năm mươi bảy phần trăm) tại thời điểm giám định. Vết thương thấu bụng trên do vật sắc tác động gây nên thương tích, cơ chế hình thành vết thương trên tác động trực tiếp từ ngoài vào.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã truy tìm tại khu vực cầu Cần Lố không thấy 02 con dao nên không thu hồi được hung khí. Trên cơ sở nhận dạng hung khí vật tương tự qua ảnh thể hiện con dao mà H sử dụng đâm K1 có đặc điểm: Dao làm bằng kim loại màu trắng, sống dao uốn lượn có nhiều lỗ, đầu mũi dao nhọn, cán bằng gỗ màu nâu là hung khí nguy hiểm, không xác định được kích thước.

Tại Bản án số 38/2021/HS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Lê H, Nguyễn Tuấn K, Nguyễn Ngọc K1, Nguyễn Văn Đại, Lê Anh K2 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22-9-2020.

n cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; khoản 1 Điều 54; Điều 91 và khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn K 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 38 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc K1 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

Căn cứ Khoản 6 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Anh K2 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28-4-2021.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên xử về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và nêu quyền kháng cáo theo luật định.

Đến ngày 05 tháng 5 năm 2021, bị cáo Lê H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung của bản án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo cho rằng vì nóng nảy, không kiềm chế được bản thân nên đã dùng con dao bằng kim loại là hung khí nguy hiểm đâm trúng vào vùng bụng bên trái của anh Lê Anh K1 gây thương tích 57%. Bị cáo thừa nhận Bản án số 38/2021/HS-ST ngày 28- 4- 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cao L , tỉnh Đồng Tháp xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ nào khác so với các tình tiết giảm nhẹ mà bản án sơ thẩm đã xem xét.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm nhận định hành vi của bị cáo Lê H bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Mức án 04 năm 06 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo H là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào khác để làm cơ sở chấp nhận kháng cáo. Vì vậy, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm đối với bị cáo Lê H về phần hình phạt.

Tại phần tranh luận, bị cáo Lê H không tham gia tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội sớm quay về sum hợp với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Xét thấy bị cáo Lê H là người đã thành niên, không bị hạn chế về năng lực hành vi, bị cáo hoàn toàn nhận thức được sức khỏe của con người là vốn quý được pháp luật bảo vệ, nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt với Lê Anh K1 mà bị cáo đã dùng dao bằng kim loại là hung khí nguy hiểm đâm vào vùng bụng bên trái của K1 gây nên mức tổn thương cơ thể cho K1 theo kết luận giám định là 57%. Hành vi của bị cáo Lê H đã xâm hại đến sức khỏe của Lê Anh K1, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và vi phạm pháp luật hình sự.

[2] Xét Bản án sơ thẩm số 38/2021/HS-ST ngày 28-4-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cao L , tỉnh Đồng Tháp kết án bị cáo Lê H phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự với các tình tiết cấu thành là “dùng hung khí nguy hiểm” và “có tính chất côn đồ” là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, nhân thân bị cáo, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại, thành khẩn khai báo; bị cáo đầu thú, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có người ông được Nhà nước tặng huy chương kháng chiến hạng nhất và có người ông là liệt sĩ, các tình tiết giảm nhẹ này phù hợp với quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xét xử bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo vi phạm là đã có chiếu cố, khoan hồng cho bị cáo đúng quy định pháp luật.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào khác để Hội đồng xét xử xem xét, do đó kháng cáo của bị cáo không có cơ sở để chấp nhận, hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với bị cáo được giữ nguyên.

[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm.

[5] Do kháng cáo của bị cáo Lê H không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê H.

Giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2021/HS- ST ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt đối với bị cáo Lê H.

Tuyên bố bị cáo Lê H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38 và khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê H 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam bị cáo (ngày 22- 9- 2020).

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-02-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 178/2021/HS-PT ngày 02/07/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:178/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về