TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 178/2020/HNGĐ-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 01 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C M xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 443/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2020 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 349/2020/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 260/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1997; địa chỉ: số 41, ấp LM1, xã L Gi, huyện C M, tỉnh An Giang (có mặt).
2. Bị đơn: Anh Huỳnh Phúc L, sinh năm 1996; địa chỉ: ấp L M 2, xã L Gi, huyện C M, tỉnh An Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng T trình bày: Chị và anh L do quen biết và được cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới năm 2017, anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã L Gi, huyện C M, tỉnh An Giang. Anh chị sống chung hạnh phúc đến tháng 3 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm, trong cuộc sống thường xuyên cự cãi, anh L không lo làm ăn để lo cho vợ con, chị có khuyên nhưng anh không sửa đổi. Anh chị không còn sống chung từ đó đến nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn chị yêu cầu ly hôn với anh L.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 19/7/2019. Hiện cháu L đang sống chung với chị T. Khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu L, không yêu cầu anh L phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T xác định không có.
- Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T xác định không có.
Tại biên bản hòa giải ngày 17 tháng 7 năm 2020 anh Huỳnh Phúc L trình bày: Anh và chị T do mai mối và tổ chức lễ cưới năm 2017, anh chị có đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã L Gi, huyện C M, về nguyên nhân mâu thuẫn cũng đúng như chị T trình bày, thời gian đầu anh thừa nhận có ăn chơi không lo làm ăn lo cho vợ con, nhưng sau này anh không còn ăn chơi và cũng đi làm thêm để có thu nhập nuôi vợ con, anh và chị T không còn chung sống vào tháng 3 năm 2020 cho đến nay. Đối với yêu cầu ly hôn của chị T anh không đồng ý, vì anh còn thương vợ và thương con, cho anh thời gian hàn gắn gia đình trong vòng 30 ngày để vợ chồng hàn gắn tình cảm.
- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 19/7/2019. Hiện nay sống chung với chị T. Khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Anh Huỳnh Phúc L xác định không có.
- Về nợ chung: Anh Huỳnh Phúc L xác định không có.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C M phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.
Ý kiến giải quyết vụ án:
- Chị Nguyễn Thị Hồng T và anh Huỳnh Phúc L kết hôn năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L Gi, huyện C M ngày 11/4/2017, là hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng sống hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L không lo cho vợ con, không lo làm ăn, vợ chồng bất đồng quan điểm sống và ly thân từ tháng 3/2020 đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm không còn, chị T yêu cầu ly hôn với anh L, anh L không đồng ý vì còn thương vợ con, chị T cương quyết xin ly hôn với anh L. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên việc chị T yêu cầu xin ly hôn với anh L là phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
- Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc L - Sinh ngày 19/7/2019. Hiện, cháu đang sống với bà T. Sau khi ly hôn, chị T, anh L đều yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ khi ly thân cho đến nay, cháu L sống với chị T vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Mặc khác, cháu L hiện dưới 36 tháng tuổi. Vì vậy, để ổn định cuộc sống cho cháu nghĩ nên để chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L. Do chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập đến.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên không đề cập giải quyết.
Từ những phân tích nêu trên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị.
- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng T đối với anh Huỳnh Phúc L.
- Chị Nguyễn Thị Hồng T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Huỳnh Nguyễn Ngọc L - Sinh ngày 19/7/2019, anh Huỳnh Phúc L không phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Hồng T khởi kiện anh Huỳnh Phúc L cư trú ấp L M 2, xã L Gi, huyện C M, tỉnh An Giang, Tòa án nhân dân huyện C M thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về hôn nhân: Chị T và anh L sống chung với nhau vào năm 2017 anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã L Gi, huyện C M, tỉnh An Giang nên quan hệ hôn nhân giữa anh chị được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống do anh, chị bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau. Chị T cho rằng anh L không lo làm ăn, chỉ biết ăn nhậu với bạn bè, không quan tâm đến vợ con, chị có khuyên nhưng anh không sửa đổi. Tại biên bản hòa giải thì anh L cũng thừa nhận là anh có ăn nhậu với bạn bè, hay cự cải, nhưng sau này anh có sửa đổi. Tòa án đã cho anh chị thời gian hàn gắn tình cảm gia đình, trong hàn gắn chị T cho rằng anh L không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung giữa không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, chị T yêu cầu ly hôn với anh L, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình “ Khi vợ hoặc chồng xin ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn .” Tại phiên tòa, chị T xác định tình cảm không còn. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.
[3]. Về con chung: Anh chị có 01 con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 19/7/2019. Hiện cháu L đang sống chung với chị T. Khi ly hôn chị T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh L cũng có ý kiến khi ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Xét thấy từ khi chị T, anh L không còn sống chung cho đến nay cháu L sống chung với chị T. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên, hiện nay cháu L sống ổn định với chị T vẫn phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Mặt khác hiện nay cháu L chưa tròn 36 tháng tuổi bên cạnh phải cần sự chăm sóc của người mẹ. Do đó, Hội đồng xét xử giao cháu L cho chị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình “ con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nôm ..”.
[4]. Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa chị T không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con, anh L cũng không có ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5]. Về tài sản chung: Tại phiên tòa chị T xác định không có. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết đối với yêu cầu này.
[6] Về nợ chung: Tại phiên tòa chị T xác định không có. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết đối với yêu cầu này.
Ghi nhận chị T, anh L xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị T, anh L trong thời kỳ hôn nhân thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị Hồng T phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ
Khoản 1 Điều 53, 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 235, và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng T.
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng T được ly hôn với anh Huỳnh Phúc L.
Giấy chứng nhận kết hôn số 72 ngày 11/4/2017 của Ủy ban nhân dân xã L Gi, huyện C M, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
- Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Huỳnh Nguyễn Ngọc L, sinh ngày 19/7/2019. Anh Huỳnh Phúc L không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị Nguyễn Thị Hồng T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở anh Huỳnh Phúc L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T anh Huỳnh Phúc L xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng T anh Huỳnh Phúc L xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Ghi nhận chị T, anh L xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của chị T, anh L trong thời kỳ hôn nhân thì anh, chị phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0008445 ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C M, tỉnh An Giang. Chị T không phải nộp thêm.
Đương sự có mặt tham gia phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 178/2020/HNGĐ-ST ngày 01/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 178/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về