TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 178/2019/HSST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 183/2019/HSST ngày 17 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 200/2019/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:
Phạm Văn Q, giới tính: Nam, sinh năm 1995 tại tỉnh N; Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Xóm 4, xã K, huyện KS, tỉnh N; Quốc tịch : Việt Nam; tôn giáo : không; Nghề nghiệp: Phụ bếp; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Phạm Xuân L (sinh năm 1968) và bà Bùi Thị H (sinh năm 1972); Hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ con; Tiền sự: không; Tiền án: không; Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 12/6/2019 (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
- Ông Hồ Trí V, sinh năm 1972; trú tại : 51/93 khu phố 05, phường AB, Thành phố BH, tỉnh ĐN (vắng mặt)
- Chị Phan Hồ Xuân H, sinh năm 1995; trú tại : 62/45 N, khu phố NĐ 02, phường DA, thị xã da, tỉnh bd (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 14 giờ 00 phút ngày 12/6/2019, tại trước nhà số: 982/4 Quang Trung, phường 8, quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh, T công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Gò Vấp kết hợp với Công an phường 8, quận Gò Vấp tuần tra, phát hiện Phạm Văn Q và Phan Hồ Xuân Hoàng có biểu hiện khả nghi nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra phát hiện Phạm Văn Q đang cất giấu trong túi quần bên trái 20 viên nén hình tròn màu xanh (khai là ma túy t ng hợp) với mục đích bán lại cho người nghiện để kiếm lời, nên đã lập biên bản thu giữ vật chứng và giao 02 đối tượng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Gò Vấp thụ lý.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn Q nhận tội và khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 11/6/2019, Phạm Văn Q cùng một số người bạn mới quen đến quán Bar 85 số 01 Quang Trung, phường 3, quận Gò Vấp để nghe nhạc. Tại đây, Q đã hỏi mua ma túy của một nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) một gói nylon bên trong chứa 20 viên nén hình tròn màu xanh khắc ký hiệu LV (thuốc lắc) với giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Q cất giấu gói nylon chứa 20 viên thuốc lắc vào trong khẩu trang y tế rồi bỏ vào trong túi quần trước phía bên trái và tiếp tục nghe nhạc. Khoảng 03 giờ, ngày 12/6/2019, Q điều khiển xe máy biển số 60F2-138.84 chở Phan Hồ Xuân Hoàng (bạn gái của Q, nhân viên Bar 85) về phòng trọ của Hoàng ở D An, tỉnh Bình Dương để nghỉ ngơi. Tại đây, Q vẫn cất giấu khẩu trang chứa ma túy trong túi quần trước phía bên trái rồi đi ngủ. Khoảng 12 giờ ngày 12/6/2019, Q nhận được điện thoại của 01 nam thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng điện thoại số sim 0762261296 gọi vào điện thoại số sim 0972228312 của Q hỏi mua 20 viên thuốc lắc và hẹn gặp tại trước khách sạn Thùy Dương địa chỉ 982/4 Quang Trung, phường 8, quận Gò Vấp, thì Q đồng ý bán. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Q điều khiển xe máy biển số 60F2-138.84 chở Hoàng đi đến địa chỉ trên và nói với Hoàng đứng ở ngoài giữ xe để Q vào khách sạn Thùy Dương gặp bạn. Khi Q đến cầu thang bộ trước cửa khách sạn Thùy Dương thì bị t công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma Túy Công an quận Gò Vấp kiểm tra, phát hiện thu giữ số ma túy như đã nêu trên.
Vật chứng thu giữ:
- 01 (một) gói nylon bên trong có 20 viên nén hình tròn màu xanh khắc ký hiệu LV, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phạm Văn Q và hình dấu của Công an phường 08, quận Gò Vấp. Tại Kết luận giám định số 1283/KLGĐ-H ngày 20/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 6,9727g (sáu phẩy chín bảy hai bảy gam), loại MDMA;
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số sim: 0937368197 - 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số sim: 0972228312 - 01 (một) xe máy biển số: 60F2-138.84, số khung: RLHJF5804EY559757, số máy: F58E-0445516, qua xác minh chiếc xe gắn máy do anh Hồ Trí Việt đứng tên chủ sở hữu. Anh Việt giao cho Hoàng (cháu ruột) sử dụng đến ngày 12/6/2019 thì bị thu giữ. Hiện Cơ quan điều tra tạm giữ chờ xử lý theo vụ án.
Riêng Phan Hồ Xuân Hoàng không biết việc Q tàng trữ ma túy để bán cho người khác nên không đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Hoàng.
Đối với 02 người thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch bán và mua ma túy của Q, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.
Tại bản cáo trạng số 179/Ctr-VKS, ngày 16/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố bị cáo Phạm Văn Q về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Văn Q đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp sau khi phân tích nội dung vụ án, những tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2, khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.
- Xử phạt bị cáo Phạm Văn Q mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.
- Phạt b sung đối với bị cáo số tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng tiền Việt nam.
- Tịch thu tiêu hủy lượng ma túy thu giữ .
- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số sim:
0937368197 - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số sim:
0972228312 - Trả lại cho ông Hồ Trí Việt 01 (một) xe máy biển số: 60F2-138.84, số khung: RLHJF5804EY559757, số máy: JF58E-0445516.
Qua ý kiến luận tội của đại diện Viện kiểm sát bị cáo nhất trí và không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với Biên bản phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại Kết luận giám định số 1283/KLGĐ-H ngày 20/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 (một) gói nylon bên trong có 20 viên nén hình tròn màu xanh khắc ký hiệu LV, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phạm Văn Q và hình dấu của Công an phường 8, quận Gò Vấp là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 6,9727g (sáu phẩy chín bảy hai bảy gam), loại MDMA.
Từ những cơ sở trên, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Phạm Văn Q đã phạm vào tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 như Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ, đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận khi công an bắt bị cáo đang giữ khối lượng ma túy tương đối lớn là 6,9727g (sáu phẩy chín bảy hai bảy gam), loại MDMA với mục đích bán kiếm lời thuộc trường hợp định khung tăng nặng nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có cơ sở.
Mặc dù bị cáo nhận thức được việc mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng do lười lao đồng, cần tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo vẫn ngang nhiên mua bán trái phép chất ma tuý bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ việc mua bán ma túy phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt b sung quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự, xét tính chất vụ án, bị cáo bán ma túy cho người khác với mục đích kiếm lời nhưng chưa kịp giao thì bị phát hiện nên chưa có thu lợi bất chính, mặt khác hoàn cảnh của bị cáo khó khăn nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt b sung cho bị cáo.
Đối với Phan Hồ Xuân Hoàng không biết việc Q tàng trữ ma túy để bán cho người khác nên cơ quan điều tra không xử lý hình sự đối với Hoàng là có cơ sở.
Đối với 02 người thanh niên bán và mua ma túy của Q không rõ nhân thân, lai lịch, cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xử lý sau.
[6] Về xử lý vật chứng:
- 01 (một) gói nylon bên trong có 20 viên nén hình tròn màu xanh khắc ký hiệu LV, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phạm Văn Q và hình dấu của Công an phường 8, quận Gò Vấp là ma túy tụng hợp Nhà nước cấm lưu hành, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số sim: 0937368197 là tư vật của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo. - 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số sim: 0972228312 là công cụ bị cáo liên lạc đến để mua bán ma túy nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước.
- 01 (một) xe máy biển số: 60F2-138.84, số khung: RLHJF5804EY559757, số máy: F58E-0445516, qua xác minh chiếc xe gắn máy do anh Hồ Trí Việt đứng tên chủ sở hữu. Anh Việt giao cho Hoàng (cháu ruột) quản lý và sử dụng chiếc xe trên, Hoàng cho bị cáo đi chung nhưng hoàn toàn không biết việc mua bán ma túy của Q nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại chiếc xe trên cho chủ sở hữu ông Hồ Trí Việt. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Q phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”;
Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Phạm Văn Q 07 (bảy) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 12/6/2019 Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và khỏan 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói nylon bên trong có 20 viên nén hình tròn màu xanh khắc ký hiệu LV, đã được niêm phong bên ngoài có chữ kí ghi tên Phạm Văn Q và hình dấu của Công an phường 8, quận Gò Vấp.
- Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số sim:
0937368197 - Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, số sim:
0972228312 - Trả lại cho ông Hồ Trí Việt 01 (một) xe máy biển số: 60F2-138.84, số khung: RLHJF5804EY559757, số máy: JF58E-0445516.
(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 142/PNK ngày 01/7/2019 của Công an quận Gò Vấp) Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13, ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi ngh a vụ liên quan thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 178/2019/HSST ngày 14/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 178/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về