TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 177/2020/HSST NGÀY 12/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 185/2020/TLST- HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Minh C; sinh năm 1984 tại tỉnh Nam Định; nơi cư trú: thôn 16, xã Trực Đạo, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Bùi Minh Q và bà: Vũ Thị D; tiền án: ngày 28-8-2014 Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định xử phạt 39 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt của cả hai tội là 48 tháng tù, ngày 03-5-2018 Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định xử phạt 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: không; nhân thân: năm 2003 Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh tỉnh Nam Định xử phạt 06 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (đã được xóa án tích); ngày 11-01-2012 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Trực Ninh ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục chữa bệnh thời hạn 12 tháng (đã được xóa tiền sự); bị bắt, tạm giữ ngày 12-3-2020, chuyển tạm giam ngày 21-3-2020; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 12-3-2020, tổ công tác Công an phường Trần Quang Khải thành phố Nam Định kiểm tra hành chính đối với Bùi Minh C đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 52M9-9408 tại khu vực cổng Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Nam Định số tại số 02 đường Trần Quốc Toản phường Ngô Quyền thành phố Nam Định. Quá trình kiểm tra, C đã tự giác giao nộp từ tay trái của mình 04 gói nhỏ bọc ni lông màu đen, tổ công tác đã tiến hành thu giữ, mở kiểm tra bên trong có gói bằng giấy bạc màu vàng đều có chứa bột dạng cục màu trắng, C khai là 04 gói Heroine. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa C cùng người làm chứng về trụ sở Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật. Ngoài ra còn tạm giữ của C chiếc xe máy biển kiểm soát 52M9-9408 và chiếc điện thoại di động Nokia màu đỏ đen, chiếc điện thoại di động Iphone màu trắng đều đã cũ.
Bản Kết luận giám định số 312/GĐKTHS ngày 16-3-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 04 gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu vàng bên ngoài bọc ni lông màu đen được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, tổng khối lượng mẫu: 0,260 (không phẩy hai trăm sáu mươi) gam.
Tại cơ quan điều tra, Bùi Minh C khai: Khoảng 12 giờ ngày 12-3-2020, Bùi Minh C điều khiển xe máy từ nhà đến khu vực ba tầng đường Phan Bội Châu, phường Trần Đăng Ninh, thành phố Nam Định gặp và mua của một người đàn ông đang đứng trên vỉa hè đường Phan Bội Châu (không rõ lai lịch, địa chỉ) 04 gói Heroine với số tiền 400.000 đồng, mục đích để sử dụng. C cầm 04 gói Heroine vừa mua trên tay trái rồi điểu khiển xe máy đi tìm nơi sử dụng. Khi C đi đến trước cửa bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định phường Ngô Quyền thành phố Nam Định thì bị phát hiện, bắt giữ.
Bản Cáo trạng số 191/CT-VKSTPNĐ ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố Bùi Minh C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên toà, bị cáo Bùi Minh C khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Minh C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định: Khoảng 13 giờ ngày 12-3-2020, bị cáo Bùi Minh C bị Công an phường Trần Quang Khải thành phố Nam Định bắt quả tang cầm trong tay 04 gói nhỏ bọc ni lông màu đen bên trong gói bằng giấy bạc màu vàng có chứa bột dạng cục màu trắng, C khai là 04 gói Heroine. Bản Kết luận giám định số 312/GĐKTHS ngày 16-3-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 04 gói nhỏ gói bằng giấy bạc màu vàng bên ngoài bọc ni lông màu đen được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, tổng khối lượng mẫu: 0,260 (không phẩy hai trăm sáu mươi) gam. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích sử dụng, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý, bị cáo đã bị kết án thuộc trường hợp tái phạm chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại quy định điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) với tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm”. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định là có căn cứ.
[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy và tội phạm, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, bị kết án đã được xóa án tích và có tiền sự đã bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Chiếc điện thoại di động Iphone, chiếc điện thoại di động Nokia là tài sản của bị cáo, không phải công cụ, phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ để bảo đảm thi hành án.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 52M9-9408 tạm giữ của Bùi Minh C, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định chủ sở hữu nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[6] Đối với đối tượng đã bán gói ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo Bùi Minh C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Minh C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Bùi Minh C 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 12-3-2020.
2. Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 312/GĐKTHS; trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động Nokia và chiếc điện thoại di động Iphone nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).
3. Án phí: Bị cáo Bùi Minh C phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Minh C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 177/2020/HSST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 177/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/06/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về