Bản án 177/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 177/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29/11/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 182/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:182/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Công C, sinh ngày 12/10/1989; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn X, xã K, huyện S, Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công T và bà Nguyễn Thị N; Tiền sự: Không; Tiền án: Có 05 tiền án:

- Ngày 02/4/ 2009, Tòa án nhân dân huyện M, Hà Nội tuyên phạt 09 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản.(chưa được xóa án tích);

- Ngày 14/5/2009, Tòa án nhân dân huyện Y, Bắc Ninh tuyên phạt 12 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. (chưa được xóa án tích);

- Ngày 05/6/2009, Tòa án nhân dân thành phố B, Bắc Ninh tuyên phạt 18 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp 09 tháng tù của Tòa án nhân dân huyện M ngày 02/4/2009 là 27 tháng tù giam. (chưa được xóa án tích);

- Ngày 25/9//2009, Tòa án nhân dân huyện S, Hà Nội tuyên phạt 30 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt với 12 tháng tù của Tòa án nhân dân huyện Y và 27 tháng tù của Tòa án nhân dân thành phố B, bị cáo phải chấp hành 05 năm 09 tháng tù giam. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/01/2014. (Đến tháng 7/2014, C tiếp tục phạm tội Trộm cắp tài sản nên bản án này chưa được xóa án tích );

- Ngày 22/9/2014, Tòa án nhân dân thành phố V, Vĩnh Phúc tuyên phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/01/2018 (bản án này chưa được xóa án tích)

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2019 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Người bị hại:

2.1. Anh Đỗ Văn D, sinh năm 1975; HKTT: Thôn V, xã H, huyện Đ, Hà Nội; Vắng mặt

2.2. Chị Ngô Thị H, sinh năm 1980; HKTT: Thôn K, xã H, huyện Đ, Hà Nội; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 09/5/2018, tại nhà bị can Nguyễn quang H1, sau khi uống rượu xong thì bị can Nguyễn văn Đ1 rủ bị can Nguyễn quang H1, bị can Nguyễn công D1 đi trộm cắp gỗ, cả bọn đồng ý. Bị can Nguyễn quang H1 gọi điện thoại rủ bị can Nguyễn Công C và Nguyễn văn L cùng tham gia. Khoảng 22h00 cùng ngày, các bị can Nguyễn công D1, Nguyễn văn Đ1 và Nguyễn văn L đến nhà Nguyễn hữu H2 (SN: 1996; Trú tại: thôn X, xã X1, huyện S, Hà Nội ) bàn bạc việc đến địa bàn huyện Đông Anh trộm cắp gỗ. Mặc dù H2 tham gia bàn bạc nH1 không tham gia trộm cắp mà ở nhà ngủ. Khoảng 23h00, Đ1 chuẩn bị 01 con dao và 01 kìm thủy lực và đưa cho Nguyễn quang H1 02 dao tông làm công cụ trộm cắp và chống trả khi bị phát hiện rồi đến cầu xã X, huyện S, Hà Nội gặp các bị can D1, L và C, cả bọn đi sang địa bàn huyện Đông Anh mục đích trộm cắp gỗ. Các bị can H1, L và D1 đi một xe máy; C và Đ1 đi một xe máy đến trước của hàng đồ gỗ của anh Đỗ Văn D (sinh năm: 1975; trú tại: thôn U, xã V, huyện Đ, Hà Nội), các bị can L, H1, C đỗ xe trên đường cảnh giới, D1 dùng kìm thủy lực cắt khóa cửa. Sau khi cắt 04 khóa cửa, các bị can L, C, D1 đột nhập vào bên trong trộm cắp được 04 tượng gỗ (01 tượng gỗ nhà tranh bằng gỗ hương, 01 tượng gỗ cây cá ngược 03 con cá bằng gỗ hương, 01 tượng giỏ hoa bằng gỗ chắc, 01 tượng Phật di lạc bằng gỗ hồi) mang ra ngoài.

Các bị can H1, L và D1 đi một xe máy, mang 02 tượng gỗ; C và Đ1 đi một xe máy (trộm cắp được tại thôn R, xã P, thị xã T, Bắc Ninh) mang 02 tượng gỗ cất giấu tại bãi rác thôn K, xã V, Đông Anh, Hà Nội. Do bên trong cửa hàng của anh D còn rất nhiều tượng gỗ nên Đ1 nói với H1, L, C, D1 “đi tìm xe cải tiến” để lấy thêm các tượng gỗ. Đ1 và C đi xe máy đến trước cửa nhà chị Ngô Thị H (sinh năm: 1980; trú tại: Thôn K, xã V, huyện Đ, Hà Nội). Đ1 dùng kìm thủy lực cắt dây khóa, trộm cắp xe cải tiến của chị Ngô Thị H rồi cùng C kéo xe cải tiến trở lại bãi rác thôn K, xã V, Đông Anh, Hà Nội gặp H1, D1, L. Các bị can Đ1, H1, L, C, D1 tiếp tục quay lại của hàng nhà anh D để trộm cắp thêm được 04 tượng gỗ gồm: 01 tượng rồng phượng bằng gỗ Trắc, 01 bệ để tượng bằng gỗ lim Nam Phi, 01 tượng hình giỏ hoa bằng gỗ Hương, 01 tượng hình Gấu trúc bằng gỗ Hương, 01 máy trà và 01 máy đánh giấy giáp để lên xe cải tiến. Lúc này thấy bị động, các bị can bỏ lại tài sản trộm cắp, lên xe máy bỏ chạy về nhà đối tượng Nguyễn hữu H2 ngủ. Khoảng 04h30ngày 10/5/2018, các bị can D1, H1, C gọi xe taxi 123, (không nhớ BKS của xe taxi) quay lại bãi rác thôn K, xã V để lấy các tượng gỗ đã trộm cắp được, nH1 chỉ còn 01 tượng hình giỏ hoa bằng gỗ Trắc, 03 tượng gỗ khác đã mất. D1 mang giỏ hoa bằng gỗ trắc (trộm được của gia đình anh D) về gửi tại nhà H2 và nói cho H2 biết đây là tài sản vừa lấy trộm được. Biết rõ giỏ hoa bằng gỗ trắc do D1 trộm cắp mà có, H2 đồng ý mang giỏ hoa trên cất giấu tại phòng ngủ tẩng 2 của nhà mình. Khoảng 14h00ngày 10/5/2018, D1 gọi điện thoại bảo H2 mang giỏ hoa đến nhà Nguyễn văn T (sinh năm 1996; HKTT: thôn X, xã X1, huyện S, Hà Nội) cho D1, H2 mang giỏ hoa bằng gỗ đến nhà Tân rồi quay về nhà. Ngày 12/5/2018, Nguyễn quang H1 mang tượng hình giỏ hoa trộm cắp được đến nhờ anh Lê Đình Đ2 (sinh năm: 1981; trú tại: Khu 5, thôn T, xã T1, Đông Anh, Hà Nội) tìm người mua. Anh Đ2 gọi điện thoại rồi mang tượng gỗ đến cho anh Ngô Vĩnh L1 (sinh năm: 1981; trú tại: Khu 5, thôn T, xã T1, huyện Đ, Hà Nội) nhờ L1 tìm khách mua. Đ2 đưa số điện thoại của bị can H1 cho anh L1 và dặn lại: khi nào có khách mua thì gọi lại cho H1 để hỏi giá bán. Anh L1 điện thoại cho anh Đỗ Văn D nói có người muốn bán tượng hình giỏ hoa bằng gỗ Trắc, bảo anh D đến xem hàng. Anh D đến nhà anh L1 xem hàng và phát hiện đúng là tài sản của mình bị trộm cắp ngày 10/5/2018, anh D trình báo Cơ quan Công an và cung cấp các chất liệu gỗ sử dụng chế tác các sản phẩm mỹ nghệ đã bị trộm cắp, ký hiệu từ 1 đến 8 (Có trong hồ sơ vụ án gửi cơ quan giám định theo quyết định trưng cầu giám định của Cơ quan CSĐT – Công an huyện Đông Anh).

Tại bản kết luận số 3266 ngày 06/8/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công kết luận như sau: Phong bì (ký hiệu 1): bên ngoài ghi “rồng phượng”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu nâu, dài khoảng 12,3cm. Tên khoa học là Delbergiacochinchinensis Pierre, tên Việt Nam là gỗ Trắc, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại; Phong bì (Ký hiệu 2): bên ngoài ghi “giỏ hoa 1”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu vàng, nâu, đen, kích thước (07x5,5)cm. Tên khoa học là Pterocarpur macrocarpus Kurz, tên Việt Nam là gỗ dáng hương, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại; Phong bì (Ký hiệu 3): bên ngoài ghi “gấu trúc”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu đỏ, nâu, trắng, dài khoảng 8,7cm. Tên khoa học là Delbergiacochinchinensis Pierre, tên Việt Nam là gỗ Trắc, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại; Phong bì (Ký hiệu 4): bên ngoài ghi “bộ”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu nâu, đỏ, kích thước (06x08)cm. Tên khoa học là Delbergiacochinchinensis Pierre, tên Việt Nam là gỗ Trắc, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại; Phong bì (Ký hiệu 5): bên ngoài ghi “nhà tranh vách đất”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu nâu, kích thước (3,5x7)cm. Tên khoa học là Delbergiacochinchinensis Pierre, tên Việt Nam là gỗ Trắc, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Phong bì (Ký hiệu 6): bên ngoài ghi “di lặc đứng góc tường”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu vàng, nâu, đen, kích thước (02x04)cm. Tên khoa học là Calocedrus macrolepis Kurz, tên Việt Nam là bách xanh, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Phong bì (Ký hiệu 7): bên ngoài ghi “tượng cá”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu nâu, kích thước (3,2x8,7)cm. Tên khoa học là Delbergiacochinchinensis Pierre, tên Việt Nam là gỗ Trắc, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại. Phong bì (Ký hiệu 8): bên ngoài ghi “giỏ hoa 2”, bên trong có 01 mẩu gỗ màu nâu, đen, dài khoảng 05cm. Tên khoa học là Delbergiacochinchinensis Pierre, tên Việt Nam là gỗ Trắc, nhóm IIA – thực vật rừng nguy cấp, quý hiếm hạn chế khai thác, sử dụng vì mục đích thương mại.

Ngày 15/6/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đông Anh kết luận trị giá thiệt hại các tài sản như sau: 01 tượng rồng, phượng bằng gỗ Trắc, trị giá: 4.000.000 đồng; 01 bệ để tượng bằng gỗ lim Nam Phi, trị giá: 200.000 đồng; 01 tượng hình giỏ hoa bằng gỗ Hương, trị giá: 4.000.000 đồng; 01 tượng hình giỏ hoa bằng gỗ Trắc, trị giá: 28.000.000 đồng; 01 tượng hình Gấu trúc bằng gỗ Hương, trị giá: 4.000.000 đồng; 01 tượng Phật di lặc bằng gỗ Hồi, trị giá: 3.000.000 đồng; 01 tượng cá ngược (03 con) bằng gỗ hương, trị giá: 4.000.000 đồng; 01 tượng cây Tùng bằng gỗ Hương, trị giá: 5.000.000 đồng; 01 xe cải tiến, trị giá: 1.000.000 đồng; 01 máy trà hiệu Zakita, trị giá: 500.000 đồng; 01 máy giấy giáp hiệu Điện cơ, trị giá: 500.000 đồng; 04 khóa Việt Tiệp, trị giá: 400.000 đồng; 01 khóa hình chữ U, trị giá: 100.000 đồng; Tổng trị giá là 54.700.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, các đối tượng Nguyễn công D1, Nguyễn văn Đ1, Nguyễn quang H1, Nguyễn văn L và Nguyễn hữu H2 khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được. Ngày 07/8/2018, Cơ quan điều tra - Công an huyện Đông Anh đã kết luận điều tra chuyển Viển kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh hồ sơ và toàn bộ vật chứng đã tạm giữ để truy tố các bị can Nguyễn công D1, Nguyễn văn Đ1, Nguyễn quang H1, Nguyễn hữu H2 và Nguyễn văn L. Ngày 26/9 và ngày 28/9/2018, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh xét xử và tuyên phạt đối với các bị can: Nguyễn văn Đ1; Nguyễn quang H1; Nguyễn công D1; Nguyễn văn L về tội Trộm cắp tài sản; Nguyễn Hữu H2 về tội Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có.

Nguyễn Công C bỏ trốn khỏi nơi cư trú, ngày 03/8/2018 Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã. Ngày 07/8/2018 ra quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can. Ngày 29/8/2019, bị can Nguyễn Công C đến Công an thị trấn Đông Anh -Công an huyện Đông Anh đầu thú theo quyết định truy nã số 17 ngày 03/8/2018 của Cơ quan CSĐT - Công an huyện Đông Anh. Tại Cơ quan điều tra, bị can C khai nhận thành khẩn hành vi phạm tội.

Đi với vật chứng thu giữ và việc xử lý vật chứng của vụ án đã được giải quyết tại bản án bản án số 145 ngày 26 và 28/9/2018 của Toàn án nhân dân huyện Đông Anh.

Về phần dân sự, anh Đỗ Văn D không yêu cầu các bị can bồi thường thiệt hại tài sản.

Ti bản cáo trạng số 184/CT-VKSĐA ngày 18/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh truy tố Nguyễn Công C về tội: “Trộm cắp tài sản” điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Công C từ 36 tháng đến 42 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về dân sự: Không ai yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

- Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ và việc xử lý vật chứng của vụ án đã được giải quyết tại Bản án bản án số 145 ngày 26 và 28/9/2018 của Toàn án nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội.

* Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thực hiện đúng, đủ quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Công C tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của các bị cáo Nguyễn công D1, Nguyễn văn Đ1, Nguyễn quang H1, Nguyễn hữu H2 và Nguyễn văn L đã bị xét xử Tòa án nhân dân huyện Đông Anh ngày 26, 28/9/2018, người bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 09/5/2018, Nguyễn Công C cùng Nguyễn văn Đ1; Nguyễn quang H1; Nguyễn công D1; Nguyễn văn L (Bị cáo Đ1, H1, D1, L đã bị Tòa án nhân dân huyện Đông Anh ngày 26 và 28/9/2018) đã có hành vi trộm cắp 01 tượng rồng phượng bằng gỗ Trắc; 01 bệ để tượng bằng gỗ lim Nam Phi; 01 tượng hình giỏ hoa bằng gỗ Hương; 01 tượng hình giỏ hoa bằng gỗ Trắc; 01 tượng hình Gấu trúc bằng gỗ Hương; 01 tượng Phật di lặc bằng gỗ Hồi; 01 tượng cá ngược (03 con) bằng gỗ hương; 01 tượng cây Tùng bằng gỗ Hương; 01 máy trà hiệu Zakita; 01 máy giấy giáp hiệu Điện cơ; 04 khóa Việt Tiệp của anh Đỗ Văn D tại thôn Thiết Úng, Vân Hà, Đông Anh, Hà Nội, trị giá là 53.600.000đ. Ngoài ra, còn trộm cắp 01 xe cải tiến và 01 khóa hình chữ U của chị Ngô Thị H tại Thôn K, xã V, Đông Anh, Hà Nội trị giá 1.100.000đ. Tổng giá trị tài sản bị can C cùng các đồng phạm trộm cắp là 54.700.000đ. Bị cáo Nguyễn Công C đã có 05 tiền án cũng về tội Trộm cắp sản chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm nguy hiểm.

Từ những căn cứ trên, có đủ cơ sở kết luận ca Nguyễn Công C đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ xác định: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo ăn năn hối cải; Bị cáo đã ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ thuộc điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội trên địa bàn huyện Đông Anh. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Song do tham lam tư lợi và coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội. Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; căn cứ nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Trong quá trình điều tra, bị cáo đã bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với bị cáo. Ngày 29/8/2019, bị cáo ra đầu thú. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Trước khi phạm tội, bị cáo làm ruộng và làm tự do nên không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án: Vật chứng thu giữ và việc xử lý vật chứng của vụ án đã được giải quyết tại Bản án bản án số 145/2018/HSST ngày 26 và 28/9/2018 của Toàn án nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội nên không đặt ra xem xét giải quyết

[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công C phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào:

- Điểm c, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Xử phạt: Nguyễn Công C 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/8/2019.

2. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

3. Vật chứng thu giữ và việc xử lý vật chứng của vụ án đã được giải quyết tại Bản án bản án số 145 ngày 26 và 28/9/2018 của Toàn án nhân dân huyện Đông Anh, Hà Nội nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

5. Án xử công khai sơ thẩm; Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án kể từ ngày nhận được bản án tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:177/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về