Bản án 177/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 177/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 51/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2019 về việc “Tranh chấp HNGĐ, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2019/QĐXXST-DS ngày 21/3/2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị L, sinh năm 1987;

Cư trú: Ấp A, thị trấn A, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm 1991.

Cư trú: Ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà L có mặt, ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và bản tự khai cùng ngày 21/01/2019 cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của bà Huỳnh Thị L trình bày: Hôn nhân giữa bà với ông Trần Văn T do tự tìm hiểu yêu thương, sống chung với nhau vào năm 2008, không có tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn tại xã V vào ngày 29/03/2011. Sau khi kết hôn, bà và ông T sống bên chồng tại ấp V, xã V, huyện A.

Nguyên nhân mâu thuẫn do ông T không chăm lo cho gia đình, chỉ lo ăn chơi, có hành vi bạo lực đối với bà nhiều lần. Bà và ông T ly thân từ tháng 12AL/2018 đến nay. Nhận thấy tình cảm giữa bà và ông T không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt nên bà yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: Bà và ông T có 01 con chung tên Trần Văn P, sinh ngày 18/05/2011. Hiện cháu P đang sống với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy cháu P, không yêu cầu ông Tiến phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Trần Văn T theo quy định, nhưng ông T vắng mặt, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông T làm việc nhưng vẫn không gặp ông T để ghi lời khai.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản làm việc ngày 20/3/2019 được bà Trần Thị Lệ T cho biết: Bà là chị ruột của ông T, còn bà L là em dâu bà. Hôn nhân giữa ông L và bà T là do tự tìm hiểu yêu thương rồi tiến tới hôn nhân. Vợ chồng L, T mâu thuẫn nhau, T năn nỉ nhiều lần nhưng L không chịu về hàn gắn. Theo bà biết thì T cũng chơi bời và hai đứa đã không còn sống chung. Theo bà khả năng hàn gắng của L và T là không thể được. Về con chung: có 01 con chung tên Trần Văn P, hiện đang sống với bà L.

Tại biên bản xác minh ngày 20/3/2019 được ông Nguyễn Đình T – Công an viên xã V cho biết: Ông Trần Văn T vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang, theo hồ sơ hộ khẩu số 4087/VHĐ, ngày 13/02/2012 do ông Trần Văn T làm chủ hộ. Ông T đi làm công nhân trên Bình Dương vẫn thường xuyên về địa phương.

Tại Phiên tòa bà L bảo lưu ý kiến. Riêng ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử (HĐXX), xét xử vắng mặt ông T theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị HĐXX: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Bà Huỳnh Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn T, ông T cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông T được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà L, ông T do tìm hiểu yêu thương rồi đi đến hôn nhân, có tổ cức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V vào ngày 29/03/2011 theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà L xin ly hôn với ông T. HĐXX xét thấy thời gian ly thân giữa bà L, ông T đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Theo lời trình bày của bà T (chị ruột ông T) thì khả năng hàn gắng của bà L và ông T là không thể. HĐXX xét thấy mâu thuẩn của bà L, ông T không thể hàn gắn, thật sự trầm trọng nên HĐXX chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà L theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Văn P, sinh ngày 18/05/2011. Hiện cháu P đang sống với bà L. Bà L yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu P, cháu P cũng trình bày nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, HĐXX nghĩ nên chấp nhận để cho bà L tiếp tục nuôi dạy con chung là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà L không yêu cầu cấp dưỡng, nên HĐXX công nhận sự tự nguyện của L.

[6] Về tài sản chung, nợ chung: Bà L xác định không có, nên HĐXX không xem xét giải quyết. Nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.

[7] Về án phí: Bà L là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân. Các bên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Huỳnh Thị L.

Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị L được ly hôn với ông Trần Văn T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 55 ngày 29/3/2011 của Ủy ban nhân dân xã V không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà Huỳnh Thị L được tiếp tục nuôi dạy 01 con chung tên Trần Văn P, sinh ngày 18/5/2011. Công nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Huỳnh Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011089 ngày 19/2/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (bà L đã nộp đủ).

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (07/5/2019) bà L có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đối với ông T được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2019/HNGĐ-ST ngày 07/05/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:177/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về