Bản án 177/2018/HS-PT ngày 17/09/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 177/2018/HS-PT NGÀY 17/09/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 10 và 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2018/TLPT- HS ngày 02 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo Đàm Quang Ngh và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo Đàm Quang Ngh, Nguyễn Văn Đ, Phạm Văn Tr và người bị hại Lê Hoàng Sang E, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Ngọc X đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 70/2018/HS - ST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

- Các bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

1. Bị cáo Đàm Quang Ngh (Gà R), sinh năm 1993 tại Quảng Ninh; Nơi ĐKTT: Tổ 4, khu 1, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh, Chỗ ở: Công ty B, ấp Đ, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: bảo vệ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;con ông Đàm Quang C và bà

Nguyễn Thị Ch (chết); chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bị Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Cố ý gây thương tích” vào ngày 12/4/2017; bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/10/2016. (Có mặt)

2. Bị cáo Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1987 tại Hưng Yên. Nơi ĐKTT: Thôn H, xã M, huyện V, tỉnh Hưng Yên; Chỗ ở: Công ty B, ấp Đ, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: bảo vệ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;con ông Nguyễn Văn Đ (chết) và bà Đặng Thị Th; vợ Phạm Kiều L sinh năm 1991; con 02 người: lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/10/2016. (Có mặt)

3. Bị cáo Phạm Văn Tr, sinh năm 1992 tại Quảng Ninh. Nơi ĐKTT: Tổ 3, khu 3, phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Công ty B, ấp Đ, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: bảo vệ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;con ông Phạm Văn H (chết) và bà Bùi Thị H; vợ Dương Thị Kim A, sinh năm 1992; con 01 người sinh năm 2011; tiền sự: Không; tiền án: có 01 tiền án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù đã chấp hành xong ngày 27/10/2013 chưa xóa án tích; bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/10/2016. (Có mặt)

- Các bị cáo bị kháng cáo:

1. Bị cáo Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1993 tại Hải Phòng. Nơi ĐKTT: Đội 10, xã Ch, huyện Th, thành phố Hải Phòng; Chỗ ở: Công ty B, ấp Đ, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: bảo vệ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;con ông Nguyễn Văn Nh và bà Đỗ Thị S; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/10/2016. (Có mặt)

2. Bị cáo Dương Văn Tú, sinh năm 1994 tại Quảng Ninh. Nơi ĐKTT: Tổ 96, khu Đ, phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Công ty Bi, ấp Đ, xã D, huyện Ph, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 11/12; nghề nghiệp: bảo vệ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;con ông Dương Văn T và bà Đinh Thị T; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 11/10/2016. (Có mặt)

3. Bị cáo Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1995 tại Quảng Ninh. Nơi ĐKTT: Tổ 12, khu 2, phường T, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Công ty B, ấp Đ, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: bảo vệ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Tr và bà Vũ Kim Ph; chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 05/6/2017. (Có mặt)

- Người bào chữa theo yêu cầu cho các bị cáo:

Luật sư Trần Đình Triển – Văn phòng luật sư Vì Dân thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội. (Có mặt)

- Người bị hại có kháng cáo:

Lê Hoàng Sang E, sinh năm 1981.

Chỗ ở: ấp C, xã C, huyện P, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Lê Hoàng Sang E:

1. Luật sư Trần Xuân Thành, công ty Luật trách nhiệm hữu hạn Vũ Trần thuộc đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội. (Có mặt)

2. Luật sư Dương Tấn Lộc – Văn phòng luật sư Dương Tấn Lộc thuộc Đoàn luật sư tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

- Người bị hại:

1. Mai Văn Giàu, sinh năm 1977. (Có mặt) Nơi ĐKTT: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau. Chỗ ở: Ấp K, xã C, huyện T, tỉnh Cà Mau.

2. Lâm Văn Út, sinh năm 1980. (Có mặt) Nơi ĐKTT: Ấp 10, xã Kh, huyện U, tỉnh Cà Mau.

3. Nguyễn Văn Huy, sinh năm 1984. (Vắng mặt) Nơi ĐKTT: Ấp L, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Mai Văn G, Lâm Văn U và bà

Lê Ngọc X:

Luật sư Dương Tấn Lộc – Văn phòng luật sư Dương Tấn Lộc thuộc Đoàn luật sư tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo:

Lê Ngọc X, sinh năm 1950 (Có mặt)

Chỗ ở: khu phố 9, thị trấn D, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:

Ông Dương Tố M, sinh năm 1983 (Có mặt)

Chỗ ở: Tổ 6, ấp Đ, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 04/12/2015 Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang tiến hành bàn giao diện tích đất tọa lạc tại ấp Đ, xã D, huyện P cho công ty B để xây dựng dự án du lịch. Đến ngày 11/10/2016 Công ty B phân công 16 người bảo vệ và 03 người lái xe cuốc chia làm ba tổ để đi san lấp mặt bằng. Tổ 01 gồm có Đàm Quang Ngh, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn Ph, Dương Văn T, Phạm Văn Tr, Nguyễn Tuấn A và Bùi Văn T đi trước cùng với một xe cuốc, số người còn lại đi sau. Đến khoảng 10 giờ cùng ngày, tổ 01 của Ngh đi làm nhiệm vụ đến phía sau nhà của Lê Hoàng Sang E, nhà này nằm trong đất dự án của công ty B.

Lúc này Sang E đang tổ chức uống rượu trong nhà cùng với Lê Văn K, Nguyễn Văn H và Lâm Văn U, khi thấy nhóm bảo vệ của công ty đến phần đất của Sang E (đất chưa bàn giao) nên Sang E lấy cây rựa quéo và K lấy một cây sắt đi ra ngăn cản không cho thi công. Ngh thấy vậy nên kêu Sang E bỏ cây rựa xuống; Sang E không bỏ nên Ngh đến giật cây rựa; còn Đ đến giật lấy cây sắt của K. K và Sang E chạy vào nhà, còn Đ, Ngh, Ph, T mỗi người cầm một cây tuýp sắt đuổi theo. Ph chặn ngay cửa sau, T và Tuấn A chặn ngay cửa trước, còn T ở ngoài không tham gia. Ngh xông vào nhà và dùng ống tuýp đánh trúng Sang Ethì bị Sang E lấy một cây dao yếm để dưới bếp chém trúng một cái vào đầu Ngh gây thương tích. Đ đến giật lấy cây dao của Sang E, trong lúc giành giật Đ bị dao cắt đứt tay. Tr đang ở ngoài lấy một cây tuýp sắt xông vào đánh trúng tay của Sang E, Đ cũng dùng tuýp sắt đánh vào tay của Sang E làm rớt cây dao xuống đất. Ngh nhặt cây dao lên chém vào đầu và tay trái Sang E 04 nhát. Ngh tiếp tục dùng tuýp sắt đánh liên tiếp vào đầu của U và H cho đến khi U và H gục xuống nhà. Lúc này, Mai Văn G là bạn với Sang E đi chợ về, thấy Sang E bị đánh nên định vào đánh tiếp ứng thì bị T và Tuấn A cầm ống tuýp sắt đi ra chặn lại và dùng ống tuýp sắt đánh nhiều cái vào người, vào đầu đang đội mũ bảo hiểm của G gây thương tích.

Tang vật thu giữ:

- 01 cây dao bằng kim loại dài 117 cm, đường kính 3,5 cm;

- 01 cây sắt hộp vuông, dài 138 cm, rộng 02 cm;

- 02 cây ba toong bằng kim loại, đường kính 03 cm, dài 71 cm, tay cầm dài 16cm;

- 02 ống tuýp bằng kim loại, đường kính 03 cm, một ống dài 85cm, 01 ống dài 86 cm;

- 01 ống tuýp bằng kim loại, dài 75 cm, đường kính 2,5cm;

- 01 cây dao yếm bằng kim loại, dài 32 cm, nơi rộng nhất 07cm;

- 01 mũ bảo hiểm bằng nhựa, đã bị vỡ màu xanh đen.

Kết luận giám định như sau:

1/- Tại bản kết luận giám định thương tích số 595/KL-PY ngày 10/11/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đã kết luận thương tích của Nguyễn Văn H như sau: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 00%.

2/- Tại bản kết luận giám định thương tích số 616/KL-PY ngày 22/11/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đã kết luận thương tích của anh Mai Văn G:Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01%.

3/- Tại bản kết luận giám định thương tích số 642/KL-PY ngày 06/12/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đã kết luận thương tích của Đàm Quang Ngh: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 06%.

4/- Tại bản kết luận giám định pháp y số 66/KL-PY ngày 09/12/2016 của Trung tâm pháp y tỉnh Kiên Giang đã kết luận thương tích của anh Lâm Văn U: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 12%.

5/- Tại bản kết luận giám định pháp y số 113/17/TgT ngày 11/01/2018 của Pháp y Quốc gia phân viện tại TP Hồ Chí Minh kết luận thương tích của Lê Hoàng Sang E kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 31%.

*Tại bản án sơ thẩm số: 70/2018/HSST, ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Đàm Quang Ngh, Nguyễn Văn Đ, Dương Văn T, Nguyễn Văn Ph, Phạm Văn Tr và Nguyễn Tuấn A phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 56 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Đàm Quang Ngh 05 (năm) năm tù. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2017/HSST ngày 13/4/2017. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Tr 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c Khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ Luật hình 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ph 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Xử phạt: Bị cáo Dương Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn A 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 05/6/2017.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc các bị cáo Đàm Quang Ngh, Nguyễn Văn Đ, Dương Văn T, Nguyễn Văn Ph, Phạm Văn Tr và Nguyễn Tuấn A liên đới bồi thường cho Lê Hoàng Sang E số tiền 480.000.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Đàm Quang Ngh bồi thường cho Lâm Văn U số tiền 60.000.000 đồng; Nguyễn Văn H số tiền 9.000.000 đồng.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Dương Văn T; Nguyễn Tuấn A bồi thường cho Mai Văn G 60.000.000 đồng.

Các bị cáo đã nộp được 362.000.000 đồng tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang theo biên lai thu số 06055 ngày 24/4/2018 là 88.524.000 đồng và biên lai thu số 06149 ngày 16/4/2018 là 273.476.000 đồng.

Các bị cáo còn phải nộp 247.000.000 đồng.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 01/6/2018 bị cáo Phạm Văn Trường, Đàm Quang Ngh có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 07/6/2018 bị cáo Nguyễn Văn Đ có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 05/6/2018 bị hại Lê Hoàng Sang E có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hình sự sơ thẩm số 70/2018/HSST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra, xét xử lại.

Ngày 05/6/2018, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Lê Ngọc X có đơn kháng cáo với nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án hình sự sơ thẩm số 70/2018/HSST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận Bản án cấp sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích“ theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng tội và giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo.

Người bị hại Lê Hoàng Sang E và người liên quan bà Lê Ngọc X giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị hại Mai Văn G kháng cáo bổ sung với nội dung yêu cầu hủy án sơ thẩm tránh bỏ lọt tội phạm.

Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, người bị hại Lâm Văn U kháng cáo bổ sung yêu cầu đi giám định lại thương tích.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Đàm Quang Ngh và Phạm Văn Tr, giảm cho mỗi bị cáo Ngh, Tr 6 tháng tù.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đ, các người bị hại Lê Hoàng Sang E, Mai Văn G và Lâm Văn U, không chấp nhận kháng cáo của người liên quan bà Lê Ngọc X, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.

*Quan điểm của luật sư bào chữa cho các bị cáo:

Về cơ bản luật sư đồng ý với quan điểm đề nghị của vị đại diện Viện Kiểm sát. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét người bị hại Lê Hoàng Sang E cầm dao tấn công các bị cáo trước, các bị cáo mục đích là để ngăn chặn xô xát. Về thương tích của người bị hại Lê Hoàng Sang E cũng cần được xem xét lại. Về việc hủy hoại căn nhà của bà X thì yêu cầu tách thành vụ án khác là có căn

cứ. Về bỏ lọt tội phạm và giám định thương tích người bị hại yêu cầu là không có căn cứ. Các bị cáo rất thành khẩn khai báo, về phần bồi thường, doanh nghiệp và gia đình các bị cáo bỏ tiền ra để bồi thường thay cho các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện. Đề nghị xem xét tình tiết mới đã bồi thường cho các bị cáo, đề nghị áp dụng thêm điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS cho tất cả các bị cáo, điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS cho Trường và bị cáo Đ và áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, giảm án cho tất cả các bị cáo, tạo điều kiện cho các bị cáo sớm có cơ hội trở về hòa nhập cộng đồng.

*Quan điểm của các luật sư bảo vệ cho người bị hại:

+ Luật sư Dương Tấn Lộc:

Luật sư đề nghị HĐXX xem xét các điểm sau:

Vụ án vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, không đưa công ty B tham gia tố tụng là sai vì các bị cáo làm việc cho công ty B. Ông Dương Tố M tham gia tố tụng không phải là đại diện của công ty Bim. Cấp sơ thẩm không định giá tài sản để xử tội hủy hoại tài sản là bỏ lọt tội phạm. Các bị cáo phạm tội có tổ chức, khi đi có sự phân công, phân tổ. Sự việc xảy ra còn có nhiều người tham gia nữa chứ không phải chỉ có 6 bị cáo, bỏ lọt đồng phạm. Đề nghị xem xét các bị cáo không thành khẩn khai báo, các bị cáo thực hiện tội phạm có tổ chức và thực hiện tội phạm đến cùng. Đề nghị xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Sang Em, bà X, anh G và anh U.

+ Luật sư Trần Xuân Thành:

Luật sư không đồng tình với Kiểm sát viên về tình tiết giảm nhẹ mới là đã bồi thường, cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với tình tiết này. Số tiền còn lại là số tiền các bị cáo có nghĩa vụ phải nộp không thể coi là tình tiết giảm nhẹ mới. Kiểm sát viên đề nghị giảm án cho hai bị cáo Ng, Tr là không có cơ sở. Luật sư đồng nghiệp đề nghị áp dụng điểm a, e khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo là không phù hợp. Các bị cáo đã có hành vi giật dao tấn công các bị hại. Việc hủy hoại tài sản là có thật, bị hại đã có hộ khẩu thường trú tại địa chỉ này và việc xây cất đơn giản thì không cần xin phép, cấp sơ thẩm đã bỏ lọt tội phạm. Hành vi bị cáo Ngh gây thương tích là bằng con dao nào chưa rõ, hung khí gây án chưa được thu thập đầy đủ. Các bị cáo không thành khẩn khai báo. Vụ án còn có nhiều mâu thuẫn. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của các bị cáo Đàm Quang Ngh, Nguyễn Văn Đ, Phạm Văn Tr, đơn kháng cáo của người bị hại Lê Hoàng Sang E về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo và bị hại Sang E theo trình tự phúc thẩm.

Xét đơn kháng cáo của bà Lê Ngọc X về quyền kháng cáo không đúng quy định tại khoản 4 Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Bà X là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, là người trực tiếp nuôi bệnh người bị hại Lê Hoàng Sang E. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên chi phí nuôi bệnh của bà X là 27.000.000 đồng nên bà X chỉ có quyền kháng cáo đối với khoản tiền mất thu nhập của người nuôi bệnh là 27.000.000 đồng. Còn đối với yêu cầu xử lý các bị cáo về tội hủy hoại tài sản, nếu bà Lê Ngọc X có căn cứ thì yêu cầu khởi tố thành vụ án hủy hoại tài sản khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bà Lê Ngọc X.

Xét kháng cáo bổ sung tại phiên tòa phúc thẩm của người bị hại Mai Văn Giàu và Lâm Văn U không đúng về thủ tục kháng cáo, thời hạn kháng cáo và quyền kháng cáo bổ sung theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, kháng cáo của người bị hại G và U không được xem xét.

 [2] Về quyết định của Bản án sơ thẩm: Các bị cáo Đàm Quang Ngh, Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn Ph, Dương Văn T, Phạm Văn Tr, Nguyễn Tuấn A là nhân viên bảo vệ của công ty B, ở ấp Đ, xã D, huyện P, tỉnh Kiên Giang. Vào ngày 11/10/2016, các bị cáo đi làm nhiệm vụ san lấp mặt bằng thì xảy ra mâu thuẫn với người bị hại Lê Hoàng Sang E do đất của Sang E nằm trong đất dự án của công ty B nhưng chưa bàn giao. Trong lúc giằng co qua lại, các bị cáo Ngh, Đ, Ph, T, Tr, Tuấn A đã dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho các người bị hại Lê

Hoàng Sang E, Lâm Văn U, Mai Văn G. Hậu quả là Lê Hoàng Sang E bị tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 31%, Lâm Văn U 12%, Mai Văn G 01%, bị cáo Đàm Quang Ngh bị gây thương tích 06 % nhưng có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Do đó, phần Quyết định của bản án sơ thẩm đã áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

 [3] Về yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Đàm Quang Ngh, Nguyễn Văn Đ, Phạm Văn Tr: Hội đồng xét xử thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt các bị cáo mức án như trên là phù hợp. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo đã tác động gia đình và dùng số tiền lương từ công ty B khắc phục toàn bộ số tiền 247.000.000 đồng cho người bị hại, đây là tình tiết giảm nhẹ mới tại phiên tòa phúc thẩm, cấp phúc thẩm sẽ xem xét giảm một phần hình phạt cho các bị cáo Đàm Quang Ngh và Phạm Văn Tr, các bị cáo còn lại mức án đã tương xứng với hành vi phạm tội nên giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.

Về yêu cầu kháng cáo của người bị hại:

Người bị hại yêu cầu xử các bị cáo về tội giết người là không có có sở, bởi lẽ sự việc xảy ra là do mâu thuẫn giữa hai bên trong việc san lấp mặt bằng của công ty B. Hai bên đều có hung khí và cùng đánh nhau qua lại, chính bị cáo Đàm Quang Ngh cũng bị thương tích 06 % nhưng bị cáo đã rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là hoàn toàn có cơ sở.

Người bị hại cho rằng bỏ lọt tội phạm đối với tội hủy hoại tài sản. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã tách thành vụ án khác khi có yêu cầu là phù hợp nên cấp phúc thẩm không có cơ sở để hủy án.

Về vấn đề bồi thường, tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các hóa đơn, chứng từ và các quy định của pháp luật tại Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015. Tuy nhiên, các bị cáo tự nguyện bồi thường số tiền cao hơn các hóa đơn, chứng từ hợp lệ nên cấp sơ thẩm ghi nhận số tiền các bị cáo bồi thường là hoàn toàn phù hợp quy định của pháp luật.

 [4] Về quan điểm của Kiểm sát viên: Quan điểm đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ phù hợp quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [5] Về quan điểm của các luật sư:

+ Luật sư bào chữa cho các bị cáo đề nghị áp dụng điểm a, e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm án cho tất cả các bị cáo là không được chấp nhận. Bởi lẽ, người bị hại có cầm hung khí nhưng chưa tấn công các bị cáo và sự việc đánh nhau là hai bên đều cùng đánh. Bị cáo Tr và bị cáo Đ đánh vào tay người bị hại là để bênh vực đồng bọn chứ không phải để ngăn chặn tác hại của tội phạm.

+ Luật sư Lộc bảo vệ cho các bị hại Sang E, G, U và bà X đề nghị hủy án vì cho rằng cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và bỏ lọt tội phạm. Hội đồng xét xử thấy rằng, công ty B không được đưa vào tham gia tố tụng là đúng quy định của pháp luật, bởi vì việc các bị cáo đánh nhau với người bị hại không liên quan tới công ty, công ty không chỉ đạo các bị cáo tấn công bị hại và san lấp mặt bằng đối với phần đất của anh Sang E. Việc bỏ lọt tội phạm đối với những người khác cũng hoàn toàn không có cơ sở. Những người này chỉ tham gia đứng xem và không có hành vi vi phạm pháp luật nên không có cơ sở để xử lý.

+ Luật sư Thành bảo vệ cho người bị hại Sang E cho rằng việc bồi thường toàn bộ số tiền cho người bị hại không phải là tình tiết giảm nhẹ mới, cấp sơ thẩm bỏ lọt tội hủy hoại tài sản và các bị cáo không thành khẩn khai báo. Thấy rằng: Đối với việc bỏ lọt tội phạm hủy hoại tài sản thì như đã phân tích ở trên; đối với việc bồi thường mặc dù cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo, tuy nhiên sau khi xét xử sơ thẩm xong, các bị cáo đã tác động bồi thường hết số tiền còn lại 247.000.000 đồng, đây là số tiền lớn, thể hiện sự ăn năn hối cải của các bị cáo, cấp phúc thẩm vẫn xem xét đây là tình tiết giảm nhẹ mới cho các bị cáo. Các bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử đều thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên luật sư cho rằng các bị cáo không thành khẩn khai báo là không có cơ sở chấp nhận.

Từ những căn cứ và nhận định trên, Hội đồng xét xử đã thảo luận và thấy rằng các Quyết định của bản án sơ thẩm về tội danh và mức hình phạt cho các bị cáo Đàm Quang Ng, Nguyễn Văn Đ, Phạm Văn Trư, Nguyễn Văn Ph, Dương Văn T, Nguyễn Tuấn A là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới là đã khắc phục toàn bộ số tiền cho người bị hại. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo Ngh và bị cáo Tr một phần hình phạt, còn các bị cáo khác mức án đã phù hợp nên giữ nguyên bản án sơ thẩm. Kháng cáo của người bị hại Lê Hoàng Sang E không có cơ sở để chấp nhận.

 [6] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000 đồng. Người bị hại Lê Hoàng Sang E phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000 đồng.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Sửa bản án sơ thẩm

2. Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38, Điều 56 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Đàm Quang Ngh (Gà Rừng) 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt 09 (chín) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2017/HSST ngày 13/4/2017. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Đ 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Tr 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 54 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Ph 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” . Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Xử phạt: Bị cáo Dương Văn T 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 11/10/2016.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn A 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 05/6/2017.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Các bị cáo đã bồi thường cho các bị hại toàn bộ số tiền 609.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Nghĩa và Trường không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000 đồng. Người bị hại Lê Hoàng Sang E phải chịu án phí hình sự phúc thẩm 200.000 đồng.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 70/2018/HSST ngày24/5/2018 của Tòa án nhân  dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 177/2018/HS-PT ngày 17/09/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:177/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về