TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 176/2017/HSST NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 179/2017/HSST ngày 06/7/2017 đối với bị cáo:
Họ tên: Lường Văn T; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1991
Nơi sinh: Điện Biên.
Nơi ĐKNKTT: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 10/12
Con ông: Lường Văn P; SN: 1960 và bà: Lường Thị S; SN: 1965
Bị cáo chưa có vợ, con
Tiền án, tiền sự: Không
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 27/4/2017. Bị cáo có mặt tại phiên tòa
Người bị hại:
1. Anh Cà Văn H; SN: 1981
2. Chị Lường Thị B; SN: 1985 đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của anh Cà Văn H và là người diện theo pháp luật của người làm chứng.
Đều trú tại: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà: Lò Thị H; SN: 1942
Trú tại: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên
2. Ông: Lường Văn P; SN: 1960
Trú tại: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên
3. Anh: Phạm Thế T; SN: 1970
Trú tại: SN 43, tổ 3, P. N, TP.Đ, tỉnh Điện Biên
4. Hoàng Thị N; SN: 1970
Trú tại: SN 18, tổ 6, P. T, TP.Đ, tỉnh Điện Biên
Người làm chứng: Cháu Cà Văn T; SN: 2007
Trú tại: Bản H, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên
(Chị B, cháu T có mặt; anh T, bà H, chị N vắng mặt có lý do).
NHẬN THẤY
Bị cáo Lường Văn T bị VKSND huyện Đ, tỉnh Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Trong tháng 4 năm 2017, Lường Văn T đã nhiều lần thực hiện hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của gia đình chị Lường Thị B (chị gái ruột của T) cụ thể:
Lần 1: Khoảng 08 giờ ngày 11/4/2017, Lường Văn T đi bộ từ nhà sang nhà chị Lường Thị B ở cùng bản mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến nhà chị B thấy không có ai ở nhà, do cửa nhà khóa nên T đi vòng ra phía trái nhà rồi trèo qua ô thoáng chui vào trong nhà. T vào phòng ngủ của B, lật đệm lên thấy có một chùm chìa khóa, quan sát thấy có chiếc két sắt gần đó, T cầm chùm chìa khóa đến mở thử và mở được. T mở két sắt ra lấy 1.500.000 đồng gồm 03 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng. Sau khi lấy được tiền T theo lối đã trèo qua lối cũ đã vào nhà để ra ngoài và dùng số tiền trộm cắp được tiêu sài cá nhân hết.
Lần 2: Khoảng 08 giờ ngày 12/4/2017, T tiếp tục sang nhà chị B để trộm cắp tài sản. T vào nhà theo lối cũ, lấy chìa khóa dưới đệm mở két sắt lấy đôi hoa tai bằng vàng và tờ giấy bảo hành mua bán đôi hoa tai cất vào túi áo bên phải đang mặc rồi khóa két sắt lại và cất chìa khóa dưới đệm ngủ sau đó đi theo lối cũ ra ngoài. Khi ra đến ngoài đường T gặp Cà Văn T2 người cùng bản đang đi trên đường. Thấy T đi bộ nên Tuấn cho T2 đi nhờ. T bảo T2 chở lên khu vực chợ Trung tâm 1, thành phố Đ để tìm hiệu vàng Hải Sen bán đôi hoa tai theo giấy bảo hành mua bán. T2 thấy T có giấy mua bán vàng nên nghĩ rằng đôi hoa tai do chị B cho T chứ không phải do T trộm cắp mà có. Đến hiệu vàng Hải Sen vì không chính chủ nên T không bán được. T bảo T2 quay về, khi về đến gần khu vực chợ thuộc phường Nam Thanh, thành phố Đ, T vào hiệu vàng Thế Tiệm và bán đôi hoa tai cho anh Phạm Thế T được 3.430.000 đồng. Sau khi bán được đôi hoa tai vàng T và T2 đi về đến bản X, xã T, huyện Đ, T xuống xe và trả công cho T2 số tiền 50.000 đồng. Số tiền còn lại T dùng tiêu sài cá nhân hết. Phạm Thế T, đã bán lại đôi hoa tai trên cho một người phụ nữ không rõ tên tuổi địa chỉ, nên Cơ quan điều tra không thu giữ được
Lần 3: Khoảng 08 giờ ngày 14/4/2017, vẫn hành vi và thủ đoạn tương tự như lần 1 và lần 2. Sau khi mở két T lấy một sợi dây chuyền vàng rồi đi về nhà lấy xe đạp của bố đẻ là Lường Văn P đi đến bản X, xã T, T gửi xe đạp ở một nhà cạnh đường rồi xin đi nhờ xe máy của một người không biết tên, địa chỉ lên hiệu vàng bạc Côn Ngọc ở chợ Trung tâm 1, thuộc phường T, thành phố Đ bán sợi dây chuyền cho chị Hoàng Thị N được 6.500.000 đồng. Số tiền bán được T đã tiêu sài cá nhân hết. Sau khi mua dây chuyền của T chị N đã xì thành cục chuyển về Công ty 65 Hàng Bạc Hà Nội nên Cơ quan điều tra không thu giữ được
Lần 4: Vào khoảng 10 giờ ngày 17/4/2017, tương tự như các lần trước, T vào buồng ngủ lật đệm lấy chùm chìa khóa ra mở két nhưng không mở được do trước đó chị B đã khóa bằng mã số. Thấy trong chùm chìa khóa có cả chìa khóa tủ gỗ ở trái nhà, T ra mở cánh tủ phía bên phải thấy bên trong có 01 cuộn vải thổ cẩm dân tộc Thái màu đỏ dài 70m, rộng 35cm trị giá 1.400.000 đồng. T lấy cuộn vải bỏ vào trong bao xác rắn tìm được trong nhà chị B rồi khóa tủ lại cất chìa khóa vào chỗ cũ. T định đi ra ngoài thì cùng lúc đó cháu Cà Văn T, con trai chị B đi học về mở cửa đi vào thấy T đang ở trong nhà vác trên vai chiếc bao tải xác rắn. T vác bao đi thẳng ra ngoài bằng lối cửa chính rồi đi về phía bản X, xã T, huyện Đ bán cuộn vải thổ cẩm cho bà Lò Thị H với giá 270.000 đồng (bà H không biết đó là tài sản do T trộm cắp mà có). Số tiền bán vải T đã tiêu sài hết. Cơ quan Điều tra đã thu giữ cuộn vải thổ cẩm trả lại cho chị Lường Thị B.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 12/KL - ĐG ngày 20/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ, tỉnh Điện Biên kết luận tài sản bị cáo T trộm cắp gồm: 01 đôi hoa tai vàng 999, trọng lượng 01 chỉ, trị giá: 3.700.000đ; 01 dây chuyền vàng 999, trọng lượng 02 chỉ, trị giá: 7.400.000đ; vải thổ cẩm mầu đỏ dân tộc Thái; trị giá: 1.400.000đ. Giá trị các tài sản định giá là: 12.500.000đ và 1.500.000đ tiền mặt. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là: 14.000.000đ.
Tại bản Cáo trạng số: 113/QĐ - VKS - HS ngày 05/7/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Lường Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138/BLHS. Tại phiên tòa trong lời luận tội đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị HĐXX áp dụng Khoản 1 Điều 138/BLHS; Điểm p Khoản 1Điều 46/BLHS; Điểm g Khoản 1 Điều 48/BLHS năm 1999. Xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Khoản 2 Điều 41; Điều 42/BLHS năm 1999 và Điều 585/BLDS năm 2015. Chấp nhận biên bản trao trả tài sản, chấp nhận việc người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên về tội danh và mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị áp dụng đối với bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa hôm nay một lần nữa bị cáo Lường Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với đơn trình báo của người bị hại; người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Kết luận định giá tài sản; Các bản cung có trong hồ sơ vụ án Kết luận điều tra cũng như Cáo trạng đã truy tố.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Trong các ngày 11,12, 14 và 17 tháng 4 năm 2017, lợi dụng gia đình chị Lò Thị B không có người ở nhà, Lường Văn T đã có hành vi trèo qua ô thoáng chui vào trong nhà, lấy chìa khóa két mở két, lấy chìa khóa tủ mở tủ gỗ để lấy đi của gia đình nhà chị B: 1.500.000đ tiền mặt; 01 đôi hoa tai vàng 999, trọng lượng 01 chỉ; 01 dây chuyền vàng 999, trọng lượng 02 chỉ; 01 cuộn vải thổ cẩm. Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là: 14.000.000đ. Số tài sản này bị cáo đã bán lấy tiền và để chi tiêu cá nhân. Hành vi chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã hoàn thành. Với hành vi và giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt thì cáo đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 138/BLHS năm 1999. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
Xét về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của cá nhân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn xã Thanh An nói riêng và huyện Đ nói chung hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý trước pháp luật để làm bài học cho bị cáo và để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngày 30/12/2011, bị cáo bị áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng đến ngày 30/9/2013 được trở về địa phương. Ngày 11/4/2017 bị cáo phạm tội trong thời gian đã hết thời hạn 02 năm kể từ ngày bị cáo chấp hành xong biện pháp hành chính nên theo Khoản 2 Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính bị cáo được coi chưa bị xử lý vi phạm hành chính. Bị cáo nhiều lần trộm cắp tài sản trong đó có 02 lần tài sản trộm cắp có giá trị trên 2.000.000 đ, đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản". Vì vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 48/BLHS năm 1999. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhệm hình sự theo quy định tại điểm p Khoản 1 Điều 46/BLHS năm 1999. Bị cáo là người có nhân thân xấu đã bị áp dụng biện pháp hành chính nhưng bị cáo không lấy đó là bài học cho mình, không chịu tu dưỡng rèn luyện, vẫn tiếp tục vi phạm điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo. Trong một thời gian ngắn bị cáo nhiều lần trộm cắp tài sản có giá trị nên HĐXX xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tiếp tục cải tạo giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng theo quy định tại Khoản 5 Điều 138/BLHS năm 1999 nhưng bị cáo chưa có vợ vẫn sống chung với bố mẹ, bị cáo không có tài sản riêng nên khó có khả năng thi hành do vậy HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo trộm cắp gồm: 1.500.000đ bị cáo chi tiêu cá nhân hết; 01 đôi hoa tai vàng; 01 dây chuyền vàng bán cho các chủ tiệm vàng không thu hồi được, chị B không có yêu cầu gì do vậy HĐXX không xem xét. 01 cuộn vải thổ cẩm Cơ quan Điều tra đã thu giữ và trả lại cho chị B.
Lò Thị H, Nguyễn Thế T và Nguyễn Thị N là những người mua tài sản nhưng không biết đó là tài sản bị cáo trộm cắp nên Cơ quan Điều tra không xử lý. Bà Lò Thị H không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.
Chiếc xe đạp bị cáo dùng để đi từ nhà đến bản Xôm, xã Thanh An sau khi trộm cắp sợi dây chuyền là xe của ông Lường Văn P, ông P không biết bị cáo dùng xe đạp vào việc phạm tội nên không xử lý. Cơ quan Điều tra đã trả lại chiếc xe cho ông Pấng là phù hợp HĐXX chấp nhận.
Cà Văn T2 là người chở bị cáo đi tiêu thụ đôi hoa tai nhưng không biết đó là tài sản bị cáo trộm cắp nên không xử lý đối với Cà Văn Tuấn, HĐXX chấp nhận.
Ngoài ra bị cáo còn khai nhận trong ngày 16/4/2017, bị cáo còn đến nhà chị B để trộm cắp tài sản, nhưng không trộm cắp được gì nên không xử lý đối với bị cáo.
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST theo quy định tại Khoản 1 Điều 99/BLTTHS và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”
Áp dụng Khoản 1 Điều 138/BLHS năm 1999; Điểm p Khoản 1 Điều 46/BLHS năm 1999; Điểm g Khoản 1 Điều 48/BLHS năm 1999.
Xử phạt bị cáo Lường Văn T 24 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam là 27/4/2017.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Khoản 2 Điều 41; Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 và Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015.
Chấp nhận biên bản trao trả tài sản của Cơ quan Điều tra cho chị B. Chấp nhận việc chị B, bà H không đề nghị Tòa giải quyết việc trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.
3. Về án phí: Căn cứ Khoản 1 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVHQ 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, chị B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (14/8/2017). Anh H có quyền kháng cáo bản án, bà H, ông P, anh T, chị N có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án chính hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 176/2017/HSST ngày 14/08/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 176/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về