TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 175/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 19 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 513/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2020 về việc "Tranh chấp ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/8/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 96/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1993.
Địa chỉ: Ấp B, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Bị đơn: Anh Lê Tuấn H, sinh năm 1989.
Địa chỉ: Tổ T, khu X, thị trấn T, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Chị T và anh H vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày:
Chị và anh Lê Tuấn H chung sống với nhau từ năm 2015, hôn nhân tự nguyện, đến năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 05 ngày 03/02/2016. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến khoảng đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H không có việc làm ổn định nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau về vấn đề kinh tế, anh H có vài lần đánh chị, chị và anh H đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn và không có khả năng hàn gắn nên chị yêu cầu ly hôn với anh H.
Về con chung: Có 01 con chung là Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 20/01/2016, từ khi vợ chồng chị sống ly thân đến nay chị là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H1. Ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H1, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không có.
Về nợ chung: Không có.
- Theo nội dung bản tự khai, biên bản hòa giải, bị đơn anh Lê Tuấn H trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Thanh T chung sống với nhau từ năm 2015, hôn nhân tự nguyện, đến năm 2016 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 05 ngày 03/02/2016. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh làm lao động tự do, công việc và thu nhập không ổn định, vợ chồng anh đã ly thân từ đầu năm 2019 đến nay. Trong thời gian ly thân, anh đã nhiều lần gặp chị T để trao đổi, hòa giải nhưng chị T không muốn hòa giải. Do anh vẫn còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn với chị T.
Về con chung: Có 01 con chung là Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 20/01/2016, từ khi vợ chồng chị sống ly thân đến nay chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H1, hàng tháng anh có cấp dưỡng cho chị T nuôi con. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn thì anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.
- Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định pháp luật.
Trong vụ án này, các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định.
Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T.
Về con chung: Đề nghị giao con chung là Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 20/01/2016 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh H không cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự trình bày không có nên không xem xét trong vụ án này.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Lê Tuấn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nH1 vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T và anh Lê Tuấn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được ủy ban nhân dân xã Bình An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 05 ngày 03/02/2016, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.
Theo chị T và anh H đều thống nhất cho rằng sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do công việc và thu nhập của anh H không ổn định dẫn đến vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi vã về vấn đề kinh tế gia đình, anh H có một vài lần đánh chị T. Theo anh H trình bày, do nóng giận nên anh có nặng lời và đánh chị T vài lần nH1 sau đó đều đã xin lỗi chị T. Do anh vẫn còn thương vợ con nên không đồng ý lý hôn.
Xét thấy, anh H và chị T đều thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đầu năm 2019 và vợ chồng anh, chị đã sống ly thân từ thời gian đó đến nay. Anh H cho rằng trong thời gian vợ chồng sống ly thân, anh đã nhiều lần gặp chị T để nói chuyện, hòa giải nH1 chị T không muốn hòa giải. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải để anh H và chị T đoàn tụ, tuy nhiên chị T vẫn cương quyết ly hôn, điều này cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng anh H và chị T đã thực sự trầm trọng, tình cảm giữa vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn. Do mục đích hôn nhân không đạt nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T.
[3] Về con chung: Chị T và anh H có 01 con chung là Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 20/01/2016, ly hôn chị T và anh H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H1. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con của chị T và anh H là chính đáng, tuy nhiên, hiện cháu H1 còn nhỏ và đang sống cùng với chị T, do đó cần tiếp tục giao cháu cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo ồn định về cuộc sống, sinh hoạt cho cháu. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung, do chị T không có yêu cầu nên không xem xét.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
[6] Nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 266, 227, 228, 238, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:
Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh T.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thanh T được ly hôn với anh Lê Tuấn H.
Về con chung: Giao con chung là Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 20/01/2016 cho chị Nguyễn Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Tạm thời anh Lê Tuấn H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Lê Tuấn H được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung khi cần thiết, các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.
Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí sơ thẩm chị T đã nộp tại biên lai số 0001633 ngày 09/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành. Chị T đã nộp đủ án phí.
Chị T, anh H được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản.
Bản án 175/2020/HNGĐ-ST ngày 19/09/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 175/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về