Bản án 175/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 175/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2019/HSST ngày 25 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 254/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyn Hải V, sinh ngày 26 tháng 3 năm 1984 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Số 2/160 N, phường T, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quang K và bà Đào Thị S; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 24/6/2019, tạm giam ngày 26/6/2019; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ ngày 24/6/2019, Tổ công tác đội 2 phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng đã phát hiện Nguyễn Hải V có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy tại khu vực trước cửa nhà số 320 T, phường V, quận L, Hải Phòng. Tiến hành kiểm tra, thu giữ trên tay trái của V 01 túi nilon màu trắng kích thước 7x11cm bên trong có 02 túi nilon kích thước 6x9cm và 01 túi nilon kích thước 3x3cm đều chứa tinh thể màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe máy Nouvo màu nâu vàng bạc biển kiểm soát: 16P3-7743, 01 điện thoại di động Sony đã cũ, 03 vỏ túi nilon màu trắng kích thước 3x3cm và số tiền 250.000đồng. Sau đó đã đưa V cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Vĩnh Niệm lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 346/KLGĐ ngày 26/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:

Tinh thể màu trắng thu giữ khi bắt giữ Nguyễn Hải V là ma túy, có khối lượng 11,6554gam, là loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Hải V khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 24/6/2019, V đang ở nhà thì nhận được điện thoại của một nam giới là bạn xã hội có số điện thoại 0868.198.623 hỏi mua 7.000.000đồng ma túy đá. V đồng ý và nói sẽ gọi lại sau. Sau đó, V điều khiển xe máy đến khu vực ngõ 380 T, phường H, quận Lê Chân, Hải Phòng gặp và mua của một nam giới không quen biết 5.000.000đồng được 3 túi nilon ma túy đá. Mua xong, V cất số ma túy vào túi quần phía sau bên trái đang mặc rồi điều khiển xe đến quán nước tại khu vực trước cửa nhà số 320 T, phường V, quận L, Hải Phòng. Tại đây, V gọi điện cho nam giới hỏi mua ma túy đến giao dịch. Khi V đang cầm ma túy trên tay thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Ngoài ra, V khai trước đó đã bán ma túy cho nam giới này một lần nhưng không nhớ thời gian, số lượng và địa điểm bán ma túy, không có ai biết và chứng kiến.

Tại Cáo trạng số 173/CT-VKS ngày 23 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Nguyễn Hải V về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm i khoản 2, 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Hải V mức án từ 10 đến 11 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền từ 05 đến 07 triệu đồng để sung quỹ Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại sau giám định và 03 vỏ túi nilon;

Tch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Sony màu trắng đã cũ thu giữ của bị cáo;

Trả lại cho bị cáo số tiền 250.000đồng thu giữ của bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 14 giờ ngày 24/6/2019, tại khu vực trước cửa nhà số 320 T, phường V, quận L, Hải Phòng, Nguyễn Hải V đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép Methamphetamine với mục đích bán kiếm lời. Do vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Hải V phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết định khung:

[3] Việc bị cáo Nguyễn Hải V mua bán trái phép 11,6554gam (mười một phẩy sáu năm năm bốn) gam Methamphetamine nên phải chịu tình tiết định khung là “Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, làm suy thoái đạo đức, lối sống và là nguyên nhân làm phát sinh những tội phạm khác. Methamphetamine nằm trong danh mục chất ma tuý do Nhà nước quản lý, chỉ được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo yêu cầu điều trị, nhưng do hám lời bị cáo đã bất chấp pháp luật, cất giữ trái phép để bán lại cho người khác, tội phạm bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp và quyết tâm phạm tội cao; nhân thân bị cáo chưa tiền án, tiền sự nhưng là đối nghiện ma túy đã đi cai nghiện tập trung năm 2010 và 2016. Vì vậy, cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm, bắt cách ly xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình nên cần căn cứ vào điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

- Về hình phạt bổ sung:

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự thì bị cáo có thể bị phạt bổ sung là phạt tiền. Do bị cáo không nghề nghiệp, không thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Số ma tuý mà cơ quan Công an thu giữ khi bắt giữ bị cáo sau khi lấy đi giám định lượng còn lại xét là vật Nhà nước cấm lưu hành nên căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

[9] Đối với chiếc điện thoại di động Sony màu trắng đã cũ, bị cáo đã sử dụng vào việc giao dịch mua bán ma túy; xét là công cụ phạm tội nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

[10] Đối với 03 vỏ túi nilon thu giữ của bị cáo, xét là vật không có giá trị nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[11] Đối với số tiền 250.000đồng thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Về các vấn đề khác:

[12] Đối với đối tượng nam giới hỏi mua ma túy và đối tượng nam giới đã bán ma túy cho V vào ngày 24/6/2019 do không xác định được căn cước, lai lịch nên không có cơ sở điều tra.

[13] Đối với số điện thoại 0868198623, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân đã xác minh chủ thuê bao là anh Hoàng Anh C, sinh năm 1998; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 34/32/143 T, phường A, quận L, Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Số 10/60/32/143 T, phường A, L, Hải Phòng. Tiến hành nhận dạng qua bản ảnh, V xác định không phải nam giới đã hỏi mua ma túy, đồng thời anh Chiến khai không sử dụng số điện thoại này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ, xử lý sau.

[14] Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát: 16P3-7743 thu giữ của bị cáo, quá trình điều tra xác định: Biển số xe có chủ đăng ký là chị Đỗ Thị P, sinh năm 1989; trú quán: Thôn N, xã A, huyện D, Hải Phòng; chị P đã bán chiếc xe vào năm 2012 nhưng không biết lai lịch người mua. Còn số khung, số máy của chiếc xe trên là nguyên thủy, chủ đăng ký là anh Lê Văn T, sinh năm 1984, trú quán: Thôn 8 xã T, huyện N, Hải Phòng, anh T đã bán xe vào năm 2009 nhưng không biết lai lịch người mua. Vì vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu giữ chiếc xe máy để điều tra làm rõ xử lý sau.

[15] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hải V 10 (mười) năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 24 tháng 6 năm 2019.

Về xử lý tang vật: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong lượng ma túy còn lại sau giám định cùng vỏ bao gói và 03 vỏ túi nilon;

Tch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Sony màu trắng đã cũ thu giữ của bị cáo;

Tiếp tục tạm giữ số tiền 250.000đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng) thu giữ của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

(Theo đúng Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25 tháng 10 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:175/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về