Bản án 175/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 175/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 376/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 164/2019/QĐXX-ST ngày 15 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thúy K, sinh năm 1997 (có mặt)

Địa chỉ: Ấp B, xã TAT, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.

2. Bị đơn: Anh Trịnh Văn Đ, sinh năm 1992 (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã TL, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn khởi kiện ngày 05/9/2019 cũng như tại phiên tòa chị Phạm Thúy K trình bày:

Chị K và anh Đ tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 21/3/2016. Thời gian chung sống phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm nên vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, cãi nhau và ly thân từ tháng 5/2019 đến nay. Do chị K và anh Đ không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị K yêu cầu ly hôn với anh Đ.

Con chung tên Trịnh Hoàng M, sinh ngày 05/9/2016 (giới tính nam), hiện con chung do anh Đ nuôi dạy nên khi ly hôn chị K tự nguyện giao con chung cho anh Đ tiếp tục nuôi dạy. Chị K không cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung và nợ chung: Không có nên chị K không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã Đ thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp:

[1] Chị Phạm Thúy K khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là anh Trịnh Văn Đ. Do chị K và anh Đ chung sống với nhau có đăng ký kết hôn nên đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn; anh Đ có địa chỉ tại ấp A, xã TL, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của chị K thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và có tống đạt hợp lệ cho anh Đ nhưng anh Đ không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu của chị K và vắng mặt tại phiên họp, hòa giải không có lý do. Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử và có tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng này cho anh Đ nhưng anh Đ vắng mặt tại các lần xét xử không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Đ theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án:

[3] Về hôn nhân: Chị Phạm Thúy K và anh Trịnh Văn Đ tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TL, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau vào ngày 21/3/2016. Xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị K và anh Đ đã tuân thủ về điều kiện đăng ký kết hôn tại Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên Đ pháp luật thừa nhận là vợ chồng. Tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa chị K yêu cầu ly hôn với anh Đ. Vì chị K cho rằng thời gian chung sống anh chị không hợp nhau thường cãi nhau làm phát sinh mâu thuẫn và anh chị đã ly thân từ tháng 5/2019 đến nay mà không có thiện chí đoàn tụ. Xét thấy, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành hòa giải để chị K và anh Đ có điều kiện gặp nhau thỏa thuận đoàn tụ gia đình nhưng không có kết quả do anh Đ vắng mặt tại các lần hòa giải, xét xử không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử lý cho chị Phạm Thúy K và anh Trịnh Văn Đ Đ ly hôn là phù hợp.

[4] Về con chung: Thời gian chung sống, chị K và anh Đ có một con chung tên Trịnh Hoàng M, sinh ngày 05/9/2016 (giới tính nam). Xét thấy, việc chị K tự nguyện giao con chung cho anh Đ tiếp tục nuôi dạy là phù hợp. Bởi vì, tuy cháu M còn nhỏ nhưng cháu M hiện do anh Đ nuôi dạy, việc hoán đổi nuôi con sẽ làm ảnh hưởng đến tình cảm của cháu. Do đó, cần tiếp tục giao con chung cho anh Đ nuôi dạy là phù hợp theo quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Đ không có ý kiến và yêu cầu chị K phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Thời gian chung sống, chị K xác định vợ chồng không có tài sản chung nên chị K không yêu cầu giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về nợ chung: Xét thấy, tại đơn khởi kiện cũng như tại phiên tòa, chị K xác định thời gian chung sống vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết là có căn cứ. Bởi vì, tại đơn xác nhận ngày 05/9/2019 của Ủy ban nhân dân xã TL, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau xác nhận không có đơn yêu cầu liên quan đến nợ đối với chị K và anh Đ tại xã. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phạm Thúy K phải chịu án phí – Theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 232 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 của luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Xét xử vắng mặt đối với anh Trịnh Văn Đ.

2.Về hôn nhân: Chị Phạm Thúy K và anh Trịnh Văn Đ Đ ly hôn.

3.Về con chung: Giao con chung tên Trịnh Hoàng M, sinh ngày 05/9/2016 (giới tính nam) cho anh Trịnh Văn Đ tiếp tục nuôi dạy. Chị Phạm Thúy K không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị Phạm Thúy K không trực tiếp nuôi dạy con chung nhưng chị có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai Đ quyền cản trở.

4.Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

5.Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Phạm Thúy K phải nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng). Vào ngày 06 tháng 9 năm 2019 chị K có dự nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0010681 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau nay Đ chuyển thu án phí.

6.Về quyền kháng cáo, kháng nghị: Bản án này là sơ thẩm, báo cho chị K biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng anh Đ vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận Đ bản án hoặc niêm yết công khai bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

385
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 175/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:175/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về