TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NQ, THÀNH PHỐ HP
BẢN ÁN 174/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC VÀ GÁ BẠC
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận NQ, thành phố HP xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 182/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:155/2020/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:
1. Trần Thị L, sinh ngày 18 tháng 5 năm 1958 tại HP. Nơi cư trú: đường LL, phường GV, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 1/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quang Đăng và bà Vũ Thị Bé (đều đã chết); có chồng là Bùi Đình Kiều (đã chết) và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
2. Nguyễn VL, sinh ngày 12 tháng 3 năm 1970 tại HP. Nơi cư trú: đường AD, phường Đ, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Viết Sóc và bà Vũ Thị Tý (đều đã chết); có vợ là Nguyễn Thị L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
3. Đặng Thị Y, sinh ngày 10 tháng 3 năm 1975 tại HP. Nơi cư trú: đường LL, phường LL, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Quốc Vỹ và bà Nguyễn Thị Cảnh (đã chết); có chồng là Hoàng Thanh Sơn (đã ly hôn) và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
4. Trần AT, sinh ngày 15 tháng 11 năm 1962 tại HP. Nơi cư trú: Phố C, phường GV, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đăng Chiền và bà Lê Thị Nga (đã chết); chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
5. Đỗ ST, sinh ngày 22 tháng 12 năm 1980 tại HP. Nơi cư trú: Số 3/107 đường Đình Đông, phường Đông Hải, quận LC, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Sơn và bà Trần Thị Mười; có vợ là Hoàng Thị Tuấn Anh (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
6. Lê KH, sinh ngày 25 tháng 6 năm 1960 tại HP. Nơi cư trú: phố C, phường GV, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn Hoành (đã chết) và bà Nguyễn Thị Hợp; có chồng là Nguyễn Văn Hưng (đã chết) có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
7. Tạ QH, sinh ngày 03 tháng 10 năm 1963 tại HP. Nơi cư trú: đường P, phường N, quận LC, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Quang Vàn và bà Đinh Thị Thuận; có vợ là Trần Thị Hòa và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 85 ngày 13/7/1984, Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố HP xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản riêng công dân”; tại Bản án số 102 ngày 06/7/1989, Toà án nhân dân quận LC, thành phố HP xử 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”; tại Bản án số 312 ngày 08/9/1995, Toà án nhân dân thành phố HP xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”; tiền sự: Ngày 15/5/2020, Công an phường Lạch Tray xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi Đánh bạc; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 23/8/2020 chuyển tạm giam; có mặt.
8. Phan VH, sinh ngày 01 tháng 9 năm 1958 tại HP. Nơi cư trú: đường LL, phường GV, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn Hợp và bà Phạm Thị Chung (đều đã chết); có vợ là Trần Thị Thanh Thủy và có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 92 ngày 17/6/2003, Toà án nhân dân quận NQ, thành phố HP xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tôi “Đánh bạc”; tiền sự: Ngày 22/6/2020, Công an phường Lạch Tray xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi Đánh bạc; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
9. Nguyễn ĐN, sinh ngày 19 tháng 10 năm 1982 tại HP. Nơi cư trú: đường LL, phường GV, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình Khôi và bà Nguyễn Thị Lý; có vợ là Nguyễn Thị Mong và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
10. Nguyễn Thị V, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1963 tại HP. Nơi cư trú: Phố C, phường GV, quận NQ, thành phố HP; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Động (đã chết) và bà Nguyễn Thị Nhung; có chồng là Tô Văn Bản (đã chết) có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 20/8/2020, đến ngày 22/8/2020 được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 19 tháng 8 năm 2020, Công an quận NQ, thành phố HP bắt quả tang 9 đối tượng gồm: Phan VH, Tạ QH, Nguyễn ĐN, Đỗ ST, Nguyễn VL, Nguyễn Thị V, Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH có hành vi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh bài “ù” tại nhà của Trần Thị L tại số 1/54/191 đường LL, phường GV, quận NQ, thành phố HP.
Vật chứng thu giữ:
- Tại chiếu bạc trên giường của Nguyễn ĐN, Nguyễn VL, Tạ QH, Đỗ ST: Số tiền là 5.760.000 (năm triệu bảy trăm sáu mươi nghìn) đồng, trong đó thu của Nguyễn VL: 2.130.000 (hai triệu một trăm ba mươi nghìn) đồng, Tạ QH 640.000 (sáu trăm bốn mươi nghìn) đồng, Nguyễn ĐN 1.180.000 (một triệu một trăm tám mươi nghìn) đồng, Đỗ ST 1.770.000 (một triệu bảy trăm bẩy mươi nghìn) đồng và 40.000 (bốn mươi nghìn) đồng tiền hồ, 01 bộ bài tú lơ khơ.
- Tại chiếu bạc của Lê KH, Nguyễn Thị V, Đặng Thị Y, Trần AT: số tiền là 5.280.000 (năm năm triệu hai trăm tám mươi nghìn) đồng, trong đó thu của Nguyễn Thị V 150.000 (một trăm năm mươi nghìn) đồng, Đặng Thị Y 1.780.000 (một triệu bẩy trăm tám mươi nghìn) đồng, Trần AT 1.910.000 (một triệu chín trăm mười nghìn) đồng, Lê KH 1.360.000 (một triệu ba trăm sáu mươi nghìn) đồng và 80.000 (tám mươi nghìn) đồng tiền hồ, 01 bộ bài tú lơ khơ. Thu trong ví của Đặng Thị Y số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.
Tại Cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận:
Khoảng 18 giờ ngày 19/8/2020, Phan VH, Tạ QH, Nguyễn ĐN, Đỗ ST, Nguyễn VL, Nguyễn Thị V, Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH đến nhà Trần Thị L tại số 1/54/191 đường LL, phường GV, quận NQ, thành phố HP để ăn uống. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi cả nhóm ăn uống xong, Trần Thị L có nói với cả nhóm mọi người đánh “ù” đi, ai có bài “ù” sẽ bỏ ra 10.000 (mười nghìn) đồng cho Trần Thị L. Tất cả mọi người đồng ý, sau đó Nguyễn ĐN, Phan VH, Tạ QH, Đỗ ST, Nguyễn VL lên trên giường tại nhà Trần Thị L để đánh bạc, còn Lê KH, Nguyễn Thị V, Đặng Thị Y, Trần AT đánh bạc dưới đất tại nhà Trần Thị L.
Nguyễn ĐN, Phan VH, Tạ QH, Đỗ ST thống nhất với nhau đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh bài “ù” bằng bộ bài tú lơ khơ 52 cây do Trần Thị L đã chuẩn bị sẵn. Người nào về nhất sẽ ăn hết số tiền của những người còn lại lần lượt là: Người về nhì mất 5.000 (năm nghìn) đồng, người về ba mất 10.000 (mười nghìn) đồng, người về bét mất 15.000 (mười lăm nghìn) đồng, người nào có bài cháy mất 30.000 (ba mười nghìn) đồng. Người nào có bài “ù” thắng hết số tiền của những người còn lại, mỗi người mất 50.000 (năm mươi nghìn) đồng, người có bài “ù” sẽ bỏ ra cho Trần Thị L 10.000 (mười nghìn) đồng. Kết thúc mỗi ván bài, cả nhóm sẽ thanh toán với nhau bằng tiền mặt rồi mới tiếp tục chia ván mới để đánh bạc. Thống nhất xong, Nguyễn ĐN, Phan VH, Tạ QH, Đỗ ST ngồi đánh bạc với nhau còn Nguyễn VL ngồi xem. Phan VH là người chia ván bài đầu tiên để cả nhóm cùng đánh bạc ăn tiền. Chơi được một lúc, Phan VH bảo Nguyễn VL vào đánh bài để Phan VH ra ngoài ngồi xem. Phan VH cho Lập 40.000 (bốn mười nghìn) đồng để tham gia đánh bạc. Nguyễn VL đồng ý và vào đánh bạc thay Phan VH. Nếu thua hết số tiền 40.000 đồng của Phan VH cho, Nguyễn VL sẽ lấy tiền của Nguyễn VL ra để tham gia đánh bạc, còn nếu thắng, Nguyễn VL sẽ được hưởng toàn bộ số tiền thắng.
Lê KH, Nguyễn Thị V, Đặng Thị Y, Trần AT thống nhất với nhau đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh bài “ù” bằng bộ bài tú lơ khơ 52 cây do Trần Thị L đã chuẩn bị sẵn. Người nào về nhất sẽ ăn hết số tiền của những người còn lại lần lượt là: Người về nhì mất 5.000 (năm nghìn) đồng, người về ba mất 10.000 (mười nghìn) đồng, người về bét mất 15.000 (mười lăm nghìn) đồng, người nào có bài cháy mất 20.000 (hai mươi nghìn) đồng. Người nào có bài “ù” thắng hết số tiền của những người còn lại, mỗi người mất 30.000 (ba mươi nghìn) đồng, người có bài “ù” sẽ bỏ ra cho Trần Thị L 10.000 (mười nghìn) đồng. Kết thúc mỗi ván bài, cả nhóm sẽ thanh toán với nhau bằng tiền mặt rồi mới tiếp tục chia ván mới để đánh bạc. Lê KH là người chia ván bài đầu tiên cho cả nhóm cùng đánh bạc.
Quá trình đánh bạc, những người được ù tại hai chiếu bạc đều trích tiền hồ từ tiền thắng bạc ra để riêng trên chiếu bạc.
Tất cả mọi người đánh bạc ăn tiền liên tục đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Công an quận NQ, thành phố HP vào bắt quả tang. Tại chỗ, Cơ quan Công an thu giữ: Tại chiếu bạc trên giường của Nguyễn ĐN, Nguyễn VL, Tạ QH, Đỗ ST: Số tiền là 5.760.000 (năm triệu bảy trăm sáu mười nghìn đồng), 01 bộ bài tú lơ khơ. Thu tại chiếu bạc của Lê KH, Nguyễn Thị V, Đặng Thị Y, Trần AT: Số tiền là 5.280.000 (năm triệu hai trăm tám mươi nghìn) đồng, 01 bộ bài tú lơ khơ. Thu trong ví của Đặng Thị Y số tiền 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng. Đồng thời, Cơ quan Công an dẫn giải các đối tượng cùng đầy đủ tang vật về trụ sở lập biên bản.
Trước khi đánh bạc, Phan VH mang theo 790.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc, thua 750.000 đồng, còn 40.000 đồng trên chiếu bạc Phan VH cho Nguyễn VL để Nguyễn VL tham gia đánh bạc.
Nguyễn VL mang theo 2.100.000 đồng. Khi Nguyễn VL vào thay vị trí của Phan VH để đánh bạc, Phan VH cho Nguyễn VL 40.000 đồng. Nguyễn VL sử dụng 2.140.000 đồng để đánh bạc. Khi bị Cơ quan điều tra bắt quả tang, Nguyễn VL đang thua 10.000 đồng.
Đỗ ST mang theo 1.350.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Đỗ ST đang thắng 420.000 đồng.
Tạ QH mang theo 800.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Tạ QH đang thua 160.000 đồng.
Nguyễn ĐN mang theo 720.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Nguyễn ĐN đang thắng 460.000 đồng.
Quá trình đánh bạc, Phan VH, Đỗ ST, Tạ QH, Nguyễn ĐN mỗi người ù 01 ván, bỏ ra 10.000 đồng/ván ù là tiền hồ. Tổng số tiền hồ thu trên chiếu bạc của Nguyễn VL, Phan VH, Đỗ ST, Tạ QH, Nguyễn ĐN là 40.000 đồng.
Trước khi đánh bạc, Đặng Thị Y mang theo 22.000.000 đồng, sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Đặng Thị Y đang thua 220.000 đồng. Số tiền 20.000.000 đồng Đặng Thị Y để trong ví là tiền Đặng Thị Y dùng để đóng học cho con, không sử dụng để đánh bạc. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 19 ngày 21/10/2020 trả lại số tiền 20.000.000 đồng cho Đặng Thị Y.
Trần AT mang theo 1.860.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Trần AT đang thắng 50.000 đồng.
Lê KH mang theo 1.200.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Lê KH đang thắng 160.000 đồng.
Nguyễn Thị V mang theo 220.000 đồng, sử dụng hết để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Nguyễn Thị V đang thua 70.000 đồng.
Quá trình đánh bạc, Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH, Nguyễn Thị V mỗi người ù 02 ván, bỏ ra 10.000 đồng/ván ù là tiền hồ. Tổng số tiền hồ thu trên chiếu bạc của Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH, Nguyễn Thị V là 80.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Thị L, Nguyễn VL, Đỗ ST, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH, Nguyễn Thị V đã khai nhận hành vi phạm tội như trên. Lời khai nhận tội của các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đỗ ST, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH, Nguyễn Thị V phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Vật chứng của vụ án: 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài và số tiền 11.040.000 đồng chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận NQ quản lý.
Tại Bản Cáo trạng số 165/CT-VKSNQ ngày 30/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận NQ, thành phố HP đã truy tố bị cáo Trần Thị L về tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự; truy tố các bị cáo Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V đồng phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V khai nhận hành vi thực hiện như nội dung nêu trên, phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt, tạo điều kiện để các bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, trở thành người có ích cho xã hội.
Kiểm sát viên tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Trần Thị L mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng về tội “Gá bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Tạ QH mức án từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù; xử phạt bị cáo Phan VH mức án từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù đều về tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17; Điều 58; điểm i, s khoản 1 (khoản 2 đối với bị cáo Nguyễn VL) Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo: Nguyễn VL mức án từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ; Đặng Thị Y mức án từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ; Trần AT mức án từ 15 tháng đến 18 tháng cải tạo không giam giữ; Đỗ ST mức án từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ; Lê KH mức án từ 12 tháng đến 15 tháng cải tạo không giam giữ; Nguyễn ĐN mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ; Nguyễn Thị V mức án từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ đều về tội “Đánh bạc”. Miễn khấu trừ một phần thu nhập đối với các bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
Về việc xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách Nhà nước số tiền 11.040.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc; tịch thu tiêu hu : 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài.
Về án phí: Các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V đều phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:
[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận NQ, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận NQ, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh và điều luật áp dụng đối với các bị cáo:
[2] Lời khai của các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V tại phiên tòa đều thống nhất và phù hợp với nhau, phủ hợp lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật cứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ ngày 19/8/2020, Trần Thị L đã sử dụng nhà ở thuộc quyền sở hữu của mình tại số 1/54/191 đường LL, phường GV, quận NQ, thành phố HP để cho Nguyễn ĐN, Nguyễn VL, Tạ QH, Đỗ ST, Phan VH đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức chơi “ù” với số tiền đánh bạc thu tại chiếu là 5.760.000 đồng và Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH, Nguyễn Thị V đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức chơi “ù” với số tiền đánh bạc thu tại chiếu là 5.280.000 đồng thì bị Công an quận NQ bắt quả tang. Tổng số tiền dùng đánh bạc của hai chiếu bạc là 11.040.000 đồng. Trần Thị L thu tiền hồ và hưởng lợi với số tiền là 120.000 đồng.
[3] Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Trần Thị L phạm tội “Gá bạc” theo điểm b khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V đồng phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận NQ, thành phố HP truy tố các bị cáo theo tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng là đúng quy định của pháp luật.
- Đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự công cộng mà còn ảnh hưởng xấu đến đời sống văn hóa ở khu dân cư, làm gia tăng, phát sinh nhiều loại tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội khác. Điều đó chứng tỏ cho thấy các bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật, nên cần xử nghiêm đối với các bị cáo mới đủ tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
- Xét vai trò của các bị cáo trong đồng phạm:
[5] Đối với bị cáo Trần Thị L tham gia giữ vai trò độc lập trong vụ án, khởi xướng, dùng địa điển nhà mình làm nơi cho các đối tượng khác đánh bạc để thu tiền hồ hưởng lợi cho bản thân với số tiền là 120.000 đồng nên cần xử bị cáo mức án nghiêm khắc. Các bị cáo Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Tạ QH, Phan VH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V đều tham gia tích cực giữ vai trò ngang nhau, đồng ý cùng thực hiện hành vi đánh bạc nhằm sát phạt nhau để ăn thua, phạm tội có tính chất mà dư luận xã hội lên án, là tệ nạn ở khu dân cư. Các bị cáo Nguyễn VL, Đỗ ST, Đặng Thị Y, Trần AT, Lê KH tham gia có số tiền chơi lớn hơn các bị cáo khác còn lại. Căn cứ tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo trong đồng phạm cần áp dụng các điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự để xét xử các bị cáo Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH mức cao hơn so với các bị cáo Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V là phù hợp.
- Xét về nhân thân của các bị cáo:
[6] Bị cáo Tạ QH có 03 tiền án và 01 tiền sự: Tại Bản án số 85 ngày 13/7/1984, Toà án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố HP xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản riêng công dân”; tại Bản án số 102 ngày 06/7/1989, Toà án nhân dân quận LC, thành phố HP xử 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”; tại Bản án số 312 ngày 08/9/1995, Toà án nhân dân thành phố HP xử 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân” đều đã xoá án tích. Ngày 15/5/2020, Công an phường Lạch Tray xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”.
[7] Bị cáo Phan VH có 01 tiền án và 01 tiền sự: Tại bản án số 92 ngày 17/6/2003, Toà án nhân dân quận NQ xử 12 tháng cải tạo không giam giữ về hành vi “Đánh bạc” đã xoá án tích. Ngày 22/6/2020, Công an phường Lạch Tray xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng về hành vi đánh bạc nên cần đánh giá các bị cáo Tạ QH và Phan VH có nhân thân xấu, không từ bỏ con đường phạm tội.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
[8] Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[9] Trong quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đối với các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, do đó được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Nguyễn VL có thời gian phục vụ trong quân đội nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Trần Thị L có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết bắt bị cáo phải cách ly ra khỏi xã hội mà giao bị cáo về cho gia đình cùng chính quyền địa phương quản lý, theo dõi giáo dục được qui định tại khoản 1 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Các bị cáo Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V phạm tội ít nghiêm trọng, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và có nơi thường trú rõ ràng, nên không cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ theo khoản 1 Điều 36 của Bộ luật Hình sự, giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi các bị cáo thường trú và gia đình quản lý, giám sát là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
[10] Đối với bị cáo Tạ QH có 03 tiền án, Phan VH có 01 tiền án (đều đã được xóa án tích); cả hai bị cáo đều có 01 tiền sự về hành vi “Đánh bạc” chưa được xóa, cho thấy bị cáo Tạ QH và Phan VH không có ý thức chấp hành pháp luật, không từ bỏ con đường phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xử vị cáo Tạ QH với mức án cao hơn bị cáo Phan VH, bắt các bị cáo Tạ QH và Phan VH phải cách ly khỏi xã hội một thời gian, mới có đủ điều kiện giáo dục các bị cáo và phát huy tác dụng răn đe, đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.
[11] Các bị cáo Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V đều có 02 ngày tạm giữ, từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020 tại cơ quan điều tra được chuyển đổi thành 06 ngày cải tạo không giam giữ để trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cho các bị cáo. Bị cáo Trần Thị L có 02 ngày tạm giữ, từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020 tại cơ quan điều tra được trừ cho bị cáo khi chấp hành án treo.
- Về việc khấu trừ thu nhập:
[12] Các bị cáo đều là lao đông tự do thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử miễn khấu trừ một phần thu nhập cho các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật Hình sự.
- Về hình phạt bổ sung:
[13] Các bị cáo Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V, Tạ QH và Phan VH thu nhập không ổn định, đều đã lớn tuổi, việc đánh bạc là tự phát, không thường xuyên nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321; bị cáo Trần Thị L đã lớn tuổi, việc gá bạc là tự phát, không thường xuyên nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 3 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.
- Về biện pháp ngăn chặn
[14] Cần tuyên bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V, Phan VH theo quy định tại Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Về xử lý vật chứng:
[15] Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 11.040.000 đồng là số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc; tịch thu tiêu hu : 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài.
- Về án phí:
[16] Các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V, Tạ QH và Phan VH phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Về quyền kháng cáo:
[17] Các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Tạ QH, Phan VH, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN và Nguyễn Thị V được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Trần Thị L 15 (mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Gá bạc". Thời gian thử thách là 30 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Trần Thị L cho Ủy ban nhân dân phường GV, quận NQ, thành phố HP nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo Trần Thị L thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, bị cáo Trần Thị L cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Trần Thị L phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Tạ QH 07 (bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20 tháng 8 năm 2020.
Xử phạt: Phan VH 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, trừ cho bị cáo 02 ngày tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17, Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Đặng Thị Y 18 (mười tám) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo được trừ 06 ngày vì đã được tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020; bị cáo còn phải chấp hành là 17 (mười bảy) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường LL, quận NQ, thành phố HP nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17, Điều 58; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn VL 15 (mười lăm) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo được trừ 06 ngày vì đã được tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020; bị cáo còn phải chấp hành là 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường Đ, quận NQ, thành phố HP nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17, Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Trần AT 15 (mười lăm) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo được trừ 06 ngày vì đã được tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020; bị cáo còn phải chấp hành là 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường GV, quận NQ, thành phố HP nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17, Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Đỗ ST 15 (mười lăm) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo được trừ 06 ngày vì đã được tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020; bị cáo còn phải chấp hành là 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường Đông Hải, quận LC, thành phố HP nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17, Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Lê KH 12 (mười hai) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo được trừ 06 ngày vì đã được tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020; bị cáo còn phải chấp hành là 11 (mười một) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường GV, quận NQ, thành phố HP nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17, Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn ĐN 12 (mười hai) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo được trừ 06 ngày vì đã được tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020; bị cáo còn phải chấp hành là 11 (mười một) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường LL, quận NQ, thành phố HP nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; Điều 36; Điều 17, Điều 58; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt: Nguyễn Thị V 12 (mười hai) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Bị cáo được trừ 06 ngày vì đã được tạm giữ từ ngày 20/8/2020 đến ngày 22/8/2020; bị cáo còn phải chấp hành là 11 (mười một) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày Cải tạo không giam giữ. Thời hạn Cải tạo không giam giữ tính từ ngày Ủy ban nhân dân phường GV, quận NQ, thành phố HP nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Giao các bị cáo Trần AT, Lê KH, Nguyễn Thị V, Nguyễn ĐN cho Ủy ban nhân dân phường GV; giao bị cáo Nguyễn VL cho Ủy ban nhân dân phường Đ; giao bị cáo Đặng Thị Y cho Ủy ban nhân dân phường LL, quận NQ, thành phố HP; giao bị cáo Đỗ ST cho Ủy ban nhân dân phường Đông Hải, quận LC, thành phố HP giám sát và giáo dục. Gia đình các bị cáo Nguyễn VL, Trần AT, Lê KH, Nguyễn Thị V, Nguyễn ĐN, Đặng Thị Y, Đỗ ST có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát và giáo dục các bị cáo.
Trong trường hợp người được cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự.
- Căn cứ Điều 125 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Phan VH, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền đánh bạc là 11.040.000 (mười một triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).
+ Tịch thu tiêu hu : 02 bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ có 52 quân bài (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận NQ, thành phố HP).
- Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V, Tạ QH và Phan VH mỗi bị cáo đều phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo đối với bản án:
Các bị cáo Trần Thị L, Nguyễn VL, Đặng Thị Y, Trần AT, Đỗ ST, Lê KH, Nguyễn ĐN, Nguyễn Thị V, Tạ QH và Phan VH được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 174/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội đánh bạc và gá bạc
Số hiệu: | 174/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về