TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 174/2020/HS-PT NGÀY 20/04/2020 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 20 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 127/TLPT-HS ngày 27/02/2020, đối với bị cáo Bùi Thái H, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HSST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Bùi Thái H; giới tính: Nam; sinh ngày: 18/9/1993, tại tỉnh C; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp B, xã T, huyện N, tỉnh C; Nghề nghiệp: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 9/12; con ông Bùi Thanh G và bà Nguyễn Kim P; chưa có vợ, con; Tiền án: không; tiền sự: không;
Nhân thân:
+ Ngày 04/8/2014, bị Tòa án nhân dân tỉnh C xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 130/2014/HSPT.
+ Ngày 11/7/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 15 tháng theo Quyết định số 217/2019/QĐ-TA.
Bị bắt, tạm giam từ ngày 26/7/2019 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 21 giờ ngày 22/4/2010, Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ, Phạm Trường G1 đến Công ty ĐT tại địa chỉ G13/34E ấp 7, xã L, huyện B, thành phố H để đón bạn. Khi đến trước công ty, Huỳnh Q nhìn thấy Nguyễn Hữu P1 đi cùng Phùng Minh T, Nguyễn Thị T1. Huỳnh Q thấy Nguyễn Hữu P1 giống người trước đây chặn đường xin tiền của mình, nên kêu Nguyễn Hà Mẫn Đ về báo cho anh ruột của Huỳnh Q là Huỳnh L biết và chạy đến. Lúc này, Huỳnh Q hỏi Nguyễn Hữu P1 tại sao lúc trước chặn đường xin tiền Huỳnh Q, Nguyễn Hữu P1 trả lời là không phải Nguyễn Hữu P1 xin tiền mà là người khác. Hai bên cự cãi nhau, Phùng Minh T điện thoại cho Thái Văn Q1, Bùi Thái H, Nguyễn Việt Q2, Lý Trọng N đang ngồi uống nước ở gần đó đến giúp. Thái Văn Q1 dùng xe máy chở Bùi Thái H, Nguyễn Việt Q2 và B (không rõ lai lịch) đến chỗ Nguyễn Hữu P1. Cùng lúc đó, Võ Văn S, Phạm Chí Đ1, Lý Trọng N và Trương Văn T2 cũng đi bộ đến chỗ Nguyễn Hữu P1.
Khi vừa đến nơi, Bùi Thái H nhảy xuống dùng tay đánh Huỳnh L. Sau đó, nhóm Huỳnh Q gồm có: Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ, Huỳnh L, Phạm Trường G1 và nhóm của Nguyễn Hữu P1 gồm có: Nguyễn Hữu P1, Bùi Thái H, Thái Văn Q1, Nguyễn Việt Q2, Phùng Minh T, Võ Văn S, Phạm Chí Đ1, Trương Văn T2 xông vào đánh nhau. Lúc này Nguyễn Hà Mẫn Đ nhìn thấy Huỳnh L bị nhóm của Nguyễn Hữu P1 đánh ngã xuống đất nên móc dao bấm mang theo sẵn trong người quăng cho Huỳnh L rồi cùng Phạm Trường G1 bỏ chạy. Huỳnh L chụp con dao do Nguyễn Hà Mẫn Đ quăng và đâm trúng chân phải của Bùi Thái H, nhưng không gây thương tích. Thấy vậy, Nguyễn Việt Q2 dùng chân đạp vào hông của Huỳnh L làm Huỳnh L té xuống đất, sau đó Phạm Chí Đ1 xông về phía Huỳnh L liền bị Huỳnh L đâm trúng một nhát vào bụng và ba nhát vào sườn, đâm xong Huỳnh L bỏ chạy.
Cùng lúc đó, Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ bị Nguyễn Hữu P1 và Phùng Minh T đánh nên Huỳnh Q lấy dao xếp mang sẵn trong người đâm một nhát trúng mạng sườn Phùng Minh T gây thương tích. Huỳnh Q bỏ chạy thì bị Võ Văn S, Trương Văn T2 đuổi theo, nên Huỳnh Q tiếp tục dùng dao đâm trúng Võ Văn S và Trương Văn T2 rồi bỏ chạy về vựa ve chai địa chỉ F10/3C ấp 6, xã L, huyện B, thành phố H. Nguyễn Hữu P1 nhặt một cục đá ven đường đuổi theo Nguyễn Hà Mẫn Đ nhưng không kịp nên quay lại thấy Phạm Chí Đ1, Phùng Minh T, Võ Văn S, Trương Văn T2 bị thương và đưa đi cấp cứu. Riêng Lý Trọng N và B không tham gia. Sau khi chạy về vựa ve chai, Huỳnh L đưa dao cho Nguyễn Hà Mẫn Đ lau sạch máu rồi đem dao cất, Huỳnh Q cầm dao chạy về xưởng thấy dao và tay dính máu nên đi rửa rồi lên nhà xem tivi. Nhận được tin báo, Công an xã L tiếp nhận sự việc, lập hồ sơ truy xét và đưa Huỳnh L, Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ, Nguyễn Hữu P1, Nguyễn Việt Q2 và Bùi Thái H về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an, các đối tượng khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung nêu trên.
Trung tâm Pháp y - Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tỷ lệ thương tích của Trương Văn T2 là 01% theo Bản kết luận giám định pháp y số 1656/TgT.10 ngày 08/12/2010; Tỷ lệ thương tích của Phùng Minh T là 46% theo Bản kết luận giám định pháp y số 1657/TgT.10 ngày 08/12/2010; Tỷ lệ thương tích của Võ Văn S là 11% theo Bản kết luận giám định pháp y số 1674/TgT.10 ngày 08/12/2010; Tỷ lệ thương tích của Phạm Chí Đ1 là 43% theo Bản kết luận giám định pháp y số 780/TgT.10 ngày 14/6/2010.
Ngày 03/5/2010, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Bình Chánh ra Quyết định khởi tố vụ án Hình sự, Quyết định khởi tố bị can đối với Huỳnh L, Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Ngày 17/02/2011, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Bình Chánh ra Quyết định bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Hữu P1, Nguyễn Việt Q2 và Bùi Thái H về tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.
Ngày 05/5/2011, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xét xử đối với Huỳnh L, Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 109/2011/HSST. Ngày 04/6/2012, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã đưa ra xét xử đối với Nguyễn Hữu P1 và Nguyễn Việt Q2 về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo Bản án số 150/2012/HSST.
Còn Bùi Thái H, sau khi bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Bình Chánh khởi tố, Bùi Thái H bỏ trốn. Ngày 19/01/2011 Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Bình Chánh ra Quyết định truy nã. Đến ngày 26/7/2019, Bùi Thái H bị bắt theo quyết định truy nã.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 08/2020/HSST ngày 16/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 245, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 69, khoản 1 Điều 74 của Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Xử phạt bị cáo Bùi Thái H 01 (một) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/7/2019.
Ngoài ra, Bản án Hình sự sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/01/2020, bị cáo Bùi Thái H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Bùi Thái H trình bày: bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt do bị cáo phạm tội lần đầu và chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như lời khai của bị cáo Bùi Thái H tại phiên tòa phúc thẩm, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo bằng với thời gian tạm giam.
Bị cáo Bùi Thái H không có ý kiến tranh luận và lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp phúc thẩm.
[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Thái H tại phiên tòa cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ ngày 22/4/2010, bị cáo Bùi Thái H cùng với Huỳnh L, Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ, Nguyễn Hữu P1, Nguyễn Việt Q2, Trương Văn T2, Phùng Minh T, Võ Văn S và Phạm Chí Đ1 thực hiện hành vi la hét, đuổi đánh nhau trên đường phố, gây hậu quả xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và làm cho Trương Văn T2 bị thương tật tỷ lệ 01%, Phùng Minh T bị thương tật tỷ lệ 46%, Võ Văn S bị thương tật tỷ lệ 11% và Phạm Chí Đ1 bị thương tật tỷ lệ 43%. Huỳnh L, Huỳnh Q, Nguyễn Hà Mẫn Đ là người trực tiếp dùng hung khí gây thương tích.
Hành vi của bị cáo Bùi Thái H đã phạm vào tội “Gây rối trật tự công cộng” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xử phạt bị cáo Bùi Thái H theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét thấy, tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thái H xin giảm nhẹ hình phạt và trình bày bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi và phạm tội lần đầu. Hội đồng xét xử xét thấy, khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Bùi Thái H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, chưa được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng.
Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị báo phạm tội khi đủ 16 nhưng chưa đủ 18 tuổi để áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, nhưng chưa áp dụng điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy, khi phạm tội, bị cáo đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, nhưng bị cáo xem thường pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm dẫn đến gây hậu quả xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Sau khi phạm tội, bị cáo bỏ trốn và tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản”, phải chấp hành hình phạt 04 năm tù theo bản án số 130/2014/HSPT ngày 04/8/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh C. Sau khi ra tù, bị cáo sử dụng trái phép chất ma túy và bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 15 tháng theo Quyết định số 217/2019/QĐ-TA ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh C, nên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thái H và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Bị cáo Bùi Thái H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thái H và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ khoản 1 Điều 245; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 69; khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Xử phạt bị cáo Bùi Thái H 01 (một) năm tù, về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/7/2019.
Bị cáo Bùi Thái H phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 174/2020/HS-PT ngày 20/04/2020 về tội gây rối trật tự công cộng
Số hiệu: | 174/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về