Bản án 174/2020/HNGĐ-ST ngày 19/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 174/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 19 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình T lý số 116/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2020 về việc "Tranh chấp ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/8/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 97/2020/QĐST-HNGĐ ngày 28/8/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1984. Địa chỉ: tổ B, ấp G, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn: Anh Trần Quang T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: tổ B, ấp G, xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Chị Q vắng mặt, anh T có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q trình bày:

Chị và anh Trần Quang T chung sống với nhau từ năm 2007, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 02 ngày 03/01/2007. Quá trình chung sống, vợ chồng hạnh phúc đến khoảng năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác và không có trách nhiệm với gia đình. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh T.

Về con chung: Có 03 con chung là Trần Quang T1, sinh ngày 30/9/2007:

Trần Nguyễn Anh T2, sinh ngày 01/10/2016; Trần Quang T3, sinh ngày 15/01/2009, hiện nay chị là người trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc các con. Ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

- Theo nội dung bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn anh Trần Quang T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị Q chung sống với nhau từ năm 2007, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Lộc An, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai theo giấy chứng nhận kết hôn số 02 ngày 03/01/2007. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc thời gian đầu, đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do công việc anh phải đi làm xa nên thời gian chăm sóc cho gia đình bị hạn chế. Trước đây anh có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nhưng hiện nay đã chấm dứt. Do anh vẫn còn T2ơng vợ, con nên không đồng ý ly hôn với chị Q.

Về con chung: Có 03 con chung là Trần Quang T1, sinh ngày 30/9/2007:

Trần Nguyễn Anh T2, sinh ngày 01/10/2016; Trần Quang T3, sinh ngày 15/01/2009, hiện chị Q đang nuôi các con, anh đi làm mỗi tuần đều về thăm con ít nhất 01 lần. Ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung, không yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

- Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và T2 ký Tòa án kể từ khi T lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng quy định pháp luật.

Trong vụ án này, các đương sự được xác định đúng tư cách pháp lý, đảm bảo việc thu thập chứng cứ, việc cấp tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ cho đương sự và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp nghiên cứu đúng thời gian quy định.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Q.

Về con chung: Đề nghị giao 03 con chung là Trần Quang T1, sinh ngày 30/9/2007; Trần Nguyễn Anh T2, sinh ngày 01/10/2016; Trần Quang T3, sinh ngày 15/01/2009 cho chị Q được trực tiếp nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con chung, do chị Q không có yêu cầu nên không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự trình bày không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn – chị Nguyễn Thị Q có đơn xin xét xử vắng mặt, do đó, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q và anh Trần Quang T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và đã được ủy ban nhân dân xã A, huyện T, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn số 02 ngày 03/01/2007, nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị Q cho rằng sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác và không có trách nhiệm với gia đình. Do tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu ly hôn với anh T.

Anh T thừa nhận từ năm 2016 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do công việc anh phải đi làm xa nên thời gian chăm sóc cho gia đình bị hạn chế, mặc dù có thời gian anh có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nhưng hiện nay đã chấm dứt, do anh vẫn còn T2ơng vợ, con và mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng nên anh không đồng ý ly hôn với chị Q.

Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Q và anh T là có thật, anh T cho rằng mâu thuẫn chưa đến mức trầm trọng, tuy nhiên anh T cũng thừa nhận mâu thuẫn bắt đầu phát sinh từ năm 2016 đến nay, trong suốt khoảng thời gian này anh T và chị Q đều không tìm được biện pháp để khắc phục, giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải để anh T và chị Q đoàn tụ, tuy nhiên chị Q vẫn cương quyết ly hôn. Theo nội dung xác nhận của ban ấp Hàng Gòn, xã Lộc An cũng thể hiện quan hệ gia đình của chị Nguyễn Thị Q T2ờng xuyên xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng bất hòa. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng anh T và chị Q đã thực sự trầm trọng, do mục đích hôn nhân không đạt nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Q.

[3] Về con chung: Chị Q và anh T có 03 con chung là Trần Quang T1, sinh ngày 30/9/2007; Trần Nguyễn Anh T2, sinh ngày 01/10/2016; Trần Quang T3, sinh ngày 15/01/2009, ly hôn chị Q và anh T đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, theo chứng cứ do chị Q cung cấp thể hiện chị có công việc ổn định với mức thu nhập hàng tháng khoảng 15.000.000 đồng, đủ khả năng nuôi dưỡng các con. Trong thời gian anh T đi làm xa thì chị Q là người chăm sóc và nuôi dưỡng các con, đồng thời theo nguyên vọng của cháu Quang T3 và cháu Quang T1 cũng muốn được ở cùng với mẹ, cháu Nguyễn Anh T2 hiện đang còn nhỏ nên giao cho chị Q chăm sóc sẽ phù hợp hơn, do đó giao 03 con chung cho chị Q trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo ồn định về cuộc sống, sinh hoạt và sự phát triển tốt nhất cho các cháu. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung, do chị Q không có yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung, các đương sự khai không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[6] Nhận định của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ các Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban T2ờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q.

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q được ly hôn với anh Trần Quang T.

Về con chung: Giao 03 con chung là Trần Quang T1, sinh ngày 30/9/2007:

Trần Nguyễn Anh T2, sinh ngày 01/10/2016; Trần Quang T3, sinh ngày 15/01/2009 cho chị Nguyễn Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục.

Tạm thời anh Trần Quang T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Trần Quang T được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung khi cần thiết, các đương sự được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí sơ thẩm chị Q đã nộp tại biên lai số 0003126 ngày 25/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành. Chị Q đã nộp đủ án phí.

Anh T được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Q vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2020/HNGĐ-ST ngày 19/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:174/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về