TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 174/2019/HS-PT NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (11 Tôn Đức Thắng, thành phố Huế) xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 123/2019/TLPT-HS ngày 05/9/2019 đối với các bị cáo Đặng Duơng P Nguyễn Anh M và Trần Chí Q, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 151/2019/HS-ST ngày 26/07/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Huế.
Bị cáo có kháng cáo:
1. Đặng Dương P (tên gọi khác: không có); sinh ngày: 18/12/1992; tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ĐKNKTT: 40/7 đường DT, phường A, Huế; nơi cư trú: H16 T, phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nhân viên; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Đặng K và bà Dương Thị Thu H; Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cu trú” từ ngày 08/01/2019. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/01/2019, đến ngày 29/01/2019 đuợc thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam bằng biện pháp ngăn chặn “B lĩnh”. Có mặt.
2. Nguyễn Anh M (tên gọi khác: không có); sinh ngày: 05/08/1995 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: 20/6/184 đường Đ, phường T, Huế; tạm trú tại: 33/01 N, phường K, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn B và bà Trương Thị Thu H; có vợ Nguyễn Thị Yến N, sinh năm: 1995; con: có 1 con sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
3. Trần Chí Q (tên gọi khác: không có); sinh ngày: 02/12/1989; nơi sinh: tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: 37 H, phường P, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trần Chí L và bà Đinh Thị Ngọc A; vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
* Người bào chữa cho các bị cáo Đặng Dương P, Nguyễn Anh M, Trần Chí Q: Luật sư Nguyễn Đình Huy, Luật sư của Văn phòng luật sư Tín Hữu, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
Địa chỉ: 47 Võ Thị Sáu, phường Phú Hội, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
* Người làm chứng:
- Anh Dương Văn B, sinh năm 1988. Nơi cư trú: thôn U, thị trấn S, huyện QĐ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Bình Điền, Bộ Công an. Có mặt.
- Anh Võ Đình C, địa chỉ: thôn T, xã Q, huyện QĐ, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
- Anh Lê Vũ Đăng K, sinh năm 1992. Nơi cư trú: 02/158 D, phường TD, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
- Chị Nguyễn Thị Ly L, địa chỉ: 02/25 N, phường TL, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
- Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1992. Nơi cư trú: 136 D, phường TD, thị xã HT, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
- Chị Huỳnh Thị Kiều N; Địa chỉ: 02/11/184 ĐBP, phường TA, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Vắng mặt.
- Anh Nguyễn Hưng K, sinh năm 2002. Nơi cư trú: 02 N, phường V, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
- Chị Nguyễn Thị Trâm A, địa chỉ: Tổ 15, khu vực 4, phường TX, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Anh Lương Mạnh C, địa chỉ: 201 NL, phường TL, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị Yến N, sinh năm 1995. Nơi cư trú: 20/6/184 ĐBP, phường T, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án này có bị cáo Dương Văn B không có kháng cáo, không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:Tối ngày 24/12/2018, Đặng Dương P cùng Dương Văn B, Lê Vũ Đăng K, Nguyễn Thị Ly L, Nguyễn Tuấn A, Huỳnh Thị Kiều N và Nguyễn Hưng K đến ăn nhậu tại quán ABOS ở đường Đ, phường P, thành phố Huế. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, cả nhóm rủ nhau về tiệm cắt tóc của Dương Văn B ở 82 Đ, phường T, thành phố Huế để sử dụng ma túy. Tại quán của B, lúc này còn có thêm Võ Đình C. Tại đây, P cùng A ,K, K và B thống nhất góp tiền giao cho P để mua ma túy (riêng B chưa góp do trước đó đã trả tiền ăn nhậu). Sau khi góp tiền, Đặng Dương P điện thoại cho một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ; số điện thoại của người này là do M cung cấp) để liên hệ mua bốn viên ma túy (dạng thuốc lắc) và Ketamine (dạng kẹo) đưa đến quán của B để cùng sử dụng.
Đến khoảng 1 giờ ngày 25/12/2018, có thêm Nguyễn Anh M, Trần Chí Q,Nguyễn Thị Trâm A, Lương Mạnh C, Nguyễn Thị Yến N đến và tất cả cùng nhau sử dụng ma túy. Do thấy người đông, lượng ma túy còn lại ít, sợ không đủ dùng, nên Q nói mua thêm ma túy để sử dụng thì được M, B và P đồng ý mua và bốn người sẽ chia nhau góp tiền trả sau. Nguyễn Anh M liền gọi điện thoại cho người đàn ông mà trước đó đã bán ma túy cho P, thỏa thuận mua thêm một gói ma túy (dạng khay) với giá 4.000.000 đồng. Khoảng 20 phút sau khi M liên hệ, người bán đã mang đến một gói ma túy giao cho các đối tượng rồi bỏ đi (chưa thanh toán tiền). Sau khi nhận gói ma túy, các đối tượng chưa mở ra để sử dụng, mà vẫn tiếp tục sử dụng số ma túy do P mua trước đó. Đến khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, khi các đối tượng vừa sử dụng hết ma túy do P mua trước đó, thì bị đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Huế phối hợp với công an phường Thuận Thành phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ: Một (01) gói nilong, bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng, được niêm phong kín.
Tại bản Kết luận giám định số 495/GĐ ngày 27/12/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Mẫu tinh thể rắn màu trắng trong gói niêm phong gửi giám định có khối lượng là 1,7755 gam (một phẩy bảy bảy năm năm gam), là ma túy, loại Ketamine.
- Hoàn lại đối tượng giám định là 1,5755 g (một phẩy năm bảy năm năm gam) mẫu tinh thể rắn màu trắng gửi giám định và các vật liệu dùng để bao gói, niêm phong khi gửi giám định.
Đối với Võ Đình C, Lê Vũ Đăng K, Nguyễn Thị Ly L, Nguyễn Tuấn A, Huỳnh Thị Kiểu N, Nguyễn Hưng K, Nguyễn Thị Trâm A, Lương Mạnh C và Nguyễn Thị Yến N, quá trình điều tra xác định trước đó có người góp tiền mua và tất cả đã cùng các bị cáo sử dụng ma túy. Tuy nhiên, kết quả điều tra không có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người này về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, Công an thành phố Huế đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy”.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 151/2019/HS-ST ngày 26/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Huế đã quyết định:
1. Tuyên bố các bị cáo Đặng Dương P Nguyễn Anh M, Trần Chí Q và Dương Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 (chỉ áp dụng đối với bị cáo Dương Văn B) Bộ luật Hình sự 2015.
- Xử phạt bị cáo Đặng Dương P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/01/2019 đến ngày 29/01/2019, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Trần Chí Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Xử phạt bị cáo Dương Văn B 10 (mười) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 09/8/2019, các bị cáo Đặng Dương P Nguyễn Anh M, Trần Chí Q đều có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét minh oan cho các bị cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế có quan điểm: Toà án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo Đặng Dương P Nguyễn Anh M và Trần Chí Q đều phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Tuy nhiên, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm vì chị Nguyễn Thị Trâm A và một số đối tượng khác có mặt tiệm cắt tóc của Dương Văn B ở 82 Đặng Thái Thân, phường Thuận Hòa, thành phố Huế để sử dụng ma túy vào sáng ngày 25/12/2018 nhưng chưa được điều tra làm rõ. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ Luật tố tụng hình sự để hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế để điều tra lại.
Kết quả xét hỏi tại phiên toà, các bị cáo Đặng Dương P Nguyễn Anh M, Trần Chí Q vẫn giữ nguyên kháng cáo kêu oan.
Người bào chữa cho các bị cáo có quan điểm: các bị cáo không phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và cấp sơ thẩm bỏ lọt tội, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của các bị cáo được làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định pháp luật về chủ thể kháng cáo, hình thức và nội dung đơn kháng cáo đúng quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ, được Tòa án giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án:
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Đặng Dương P Nguyễn Anh M, Trần Chí Q đều không nhận tội. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của người làm chứng, lời khai các bị cáo trong quá trình điều tra, các bản tự khai của các bị cáo vào sáng ngày 25/12/2018 là phù hợp với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 02 giờ 30 phút sáng ngày 25/12/2018, tại tiệm cắt tóc của Duơng Văn B ở tại địa chỉ 82 Đ, phường T, thành phố Huế, Đặng Duơng P cùng Nguyễn Anh M, Trần Chí Q và Duơng Văn B đang tàng trữ trái phép 1,7755 g (một phẩy bảy bảy năm năm gam) ma túy loại Ketamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang.
Với hành vi trên, Tòa án nhân dân thành phố Huế đã kết án các bị cáo Đặng Duơng P Nguyễn Anh M và Trần Chí Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan cho các bị cáo.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Đặng Duơng P Nguyễn Anh M và Trần Chí Q, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng:
Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, tất cả các bị cáo đều thống nhất cùng góp tiền mua ma túy để sử dụng. Trong đó, Đặng Duơng p là nguời trực tiếp liên lạc và mua ma túy cho cả nhóm sử dụng lần đầu, Nguyễn Anh M cung cấp số điện thoại cho P liên lạc mua ma túy cho cả nhóm sử dụng ma túy lần đầu và bản thân M trực tiếp mua ma túy cho cả nhóm sử dụng lần 2, Trần Chí Q là nguời khởi xướng việc sử dụng ma túy nên cả 3 bị cáo đều có vai trò tương đương nhau. Lời kêu oan của các bị cáo là không có căn cứ.
Các bị cáo đều là nguời có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhung vì để thỏa mãn nhu cầu sử dụng, thói đua đòi, ăn chơi của mình nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, trực tiếp ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của con nguời, sự phát triển của nòi giống và làm tăng tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội.
Tòa án nhân dân thành phố Huế đã xem xét, cân nhắc cho các bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình để xử phạt mỗi bị cáo 01 năm 03 tháng tù là phù hợp, không oan cho các bị cáo, tuơng xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cũng nhu đặc điểm nhân thân của các bị cáo. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.
[4] Đối với quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa và của luật sư bào chữa cho rằng, cần hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ để điều tra lại do có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng;
Khoảng 02 giờ 30 phút sáng ngày 25/12/2018, tại tiệm cắt tóc của Duơng Văn B ở tại địa chỉ 82 Đ, phường T, thành phố Huế, Đặng Duơng P cùng Nguyễn Anh M, Trần Chí Q và Dương Văn B đang tàng trữ trái phép 1,7755 g (một phẩy bảy bảy năm năm gam) ma túy loại Ketamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an phát hiện bắt quả tang. Khi bắt quả tang các bị cáo Đặng Duơng P cùng Nguyễn Anh M, Trần Chí Q và Dương Văn B thì tại tiệm cắt tóc của Dương Văn B còn có chị Nguyễn Thị Trâm A và một số đối tượng khác cũng có mặt. Tại phiên tòa, có một số đối tượng khai có nghe chị Nguyễn Thị Trâm A là người khởi xướng mua thêm ma túy lần 2 để cả nhóm sử dụng. Như vậy, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, cần điều tra làm rõ.
Tuy nhiên, hành vi phạm tội của các bị cáo Đặng Dương P, Nguyễn Anh M, Trần Chí Q và Dương Văn B hoàn toàn độc lập với hành vi của chị Nguyễn Thị Trâm A và một số đối tượng khác, phần trách nhiệm hình sự của bị cáo Dương Văn B đã có hiệu lực pháp luật, hiện nay bị cáo đang chấp hành hình phạt tù. Do vậy, không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, mà cần giữ nguyên bản án sơ thẩm và đề nghị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế khởi tố vụ án để điều tra làm rõ hành vi của chị Nguyễn Thị Trâm A và một số đối tượng khác có mặt tại tiệm cắt tóc của Dương Văn B ở 82 Đ, phường T, thành phố Huế vào 02 giờ 30 phút sáng ngày 25/12/2018, theo quy định tại Điều 153 Bộ luật tố tụng hình sự.
[5] Án phí hình sự phúc thẩm, các bị cáo phải chịu theo luật định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự
2015;
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đặng Dương P, Nguyễn Anh M và Trần Chí Q, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 151/2019/HS-ST ngày 26/7/2019 của Toà án nhân dân thành phố Huế.
Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt:
- Bị cáo Đặng Dương P 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/01/2019 đến ngày 29/01/2019, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Bị cáo Nguyễn Anh M01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Bị cáo Trần Chí Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
2. Án phí hình sự phúc thẩm các bị cáo Đặng Dương P Nguyễn Anh M và Trần Chí Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 174/2019/HS-PT ngày 14/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 174/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về