Bản án 174/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 174/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 884/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 199/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 150/2019/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Tuyết M, sinh năm 1979; địa chỉ: Số A, khu phố T, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Ngô Tấn L, sinh năm 1978; địa chỉ: Số A, khu phố T, phường T, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 8 năm 2019 và quá trình tố tụng nguyên đơn chị Phạm Thị Tuyết M trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Ngô Tấn L có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 04 năm thì tổ chức đám cưới năm 1999, đến ngày 16/10/2007 hai vợ chồng chị mới đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 239/HT, quyển số 01/2007. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại phường N, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó anh L không lo tu chí làm ăn mà mê đánh bài ăn tiền, vay nợ để chơi bài, chị vừa phải lo kiếm tiền nuôi gia đình vừa trả nợ cho anh L, sau đó anh L gây nợ nhiều nên chị phải dắt con bỏ lên Dĩ An, Bình Dương sinh sống, khi mẹ con ổn định thì gia đình anh L và bản thân anh L năn nỉ xin chị cho cơ hội đoàn tụ, vì thương các con nên chị đồng ý đưa anh L lên sống cùng. Nhưng khi đoàn tụ anh L chỉ tu chí được thời gian đầu sau đó vẫn chứng nào tật đó vẫn không bỏ được tật đánh bài, đá gà. Cách đây 2 năm anh L còn có tình cảm với người phụ nữ khác và dọn qua ở cùng người phụ nữ này từ đó đến nay, thỉnh thoảng có về nhà nhưng lần nào về anh L cũng kiếm chuyện đánh, chửi chị. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Ngô Tấn L.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Ngô Thị Yến Nh, sinh ngày 24/9/2000 và Ngô Tấn H, sinh ngày 15/9/2007. Sau khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Ngô Tấn H, sinh ngày 15/9/2007 và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Ngô Thị Yến Nh đã trưởng thành không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn anh Ngô Tấn L: Anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để cung cấp bản tự khai, tài liệu chứng cứ, tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 30/9, 16/10/2019 tham gia phiên tòa vào các ngày 14/11 và 29/11/2019 nhưng vắng mặt không có lý do nên không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị M và cũng không cung cấp tài liệu chứng cứ hay yêu cầu triệu tập thêm người tham gia tố tụng.

- Tại biên bản xác minh nguyên nhân mâu thuẫn gia chị M và anh L do Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiến hành ngày 05/9/2019, Hội Liên hiệp phụ nữ phường cung cấp thông tin như sau: Hội liên hiệp phụ nữ phường không nhận được đơn đề nghị hòa giải hôn nhân giữa chị Phạm Thị Tuyết M và anh Ngô Tấn L, đồng thời Hội cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh chị, do đó không biết rõ mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị.

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã được thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định tại Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Sự chấp hành pháp luật của đương sự: Các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định pháp luật liên quan.

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nhận thấy yêu cầu ly hôn và nuôi con của nguyên đơn là có cơ sở theo quy định pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Thị Tuyết M có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, anh Ngô Tấn L đã được tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 14/11/2019 và 29/11/2019 nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự Tòa án xét xử vắng mặt chị M, anh L.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Tuyết M và anh Ngô Tấn L là vợ chồng có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 239/HT, quyển số 01/2007 ngày 16/10/2007 tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[3] Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, theo lời trình bày của chị M trong quá trình tố tụng cho thấy nguyên nhân mâu thuẫn bắt nguồn từ việc anh L không tu chí làm ăn lo cho gia đình mà còn ham mê đánh bài, chơi đá gà ăn tiền gây ra nợ nần, chị M đã tha thứ cho anh L để cho anh L cơ hội sửa chữa nhưng anh L vẫn chứng nào tật đó không bỏ được các thói xấu là chơi bài bạc. Không những không sửa đổi tính tình tu chí làm ăn, anh L còn có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác khi vẫn còn tồn tại quan hệ hôn nhân với chị M.

[4] Quá trình tố tụng Tòa án đã triệu tập anh L lên để hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh L bỏ mặc không quan tâm đến hòa giải đoàn tụ, hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị M. Anh, chị đã có thời gian ly thân khoảng 2 năm nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau, điều này chứng tỏ mục đích của cuộc hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn đã thưc sư trâm trong , không thê han găn vì vậy yêu cầu xin ly hôn của chị M là có căn cứ theo quy đinh tai kho ản 1 Điêu 56 Luât Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về con chung: Vợ chồng chị M, anh L có 02 con chung. Con chung tên Ngô Thị Yến Nh, sinh năm 2000 đã trưởng thành, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với con chung tên Ngô Tấn H sinh ngày 15/7/2007, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn. Xét, việc giao con cho ai chăm sóc cũng đều phải đảm bảo sự phát triển tốt nhất cho con chung. Thời gian chị M, anh L ly hôn cháu H chung sống cùng với chị và từ khi cháu còn nhỏ cho đến nay chị M là người trưc tiếp chăm sóc cháu. Vì vậy, giao con chung Ngô Tấn H cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Hoài. Ghi nhận sự tự nguyện của chị M không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sư không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

Từ những phân tích trên, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An là có cơ sở chấp nhận.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị Tuyết M phải chịu án phí ly hôn theo quy đinh cua phap luât.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 228, 235, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Tuyết M được ly hôn với anh Ngô Tấn L (theo giấy chứng nhận kết hôn số 239/HT, quyển số 01/2007 do Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang cấp ngày 16/10/2007).

2. Về con chung:

2.1. Anh Ngô Tấn L giao con Ngô Tấn H, sinh ngày 15/9/2007 cho chị Phạm Thị Tuyết M trực tiếp nuôi dưỡng.

Đi với con chung tên Ngô Thị Yến Nh, sinh năm 2000 đã trưởng thành, đương sự không yêu cầu tòa án không xem xét.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Phạm Thị Tuyết M không yêu cầu anh Ngô Tấn L cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị M phải tạo điều kiện cho anh L trong việc thăm nom, chăm sóc con, không ai có quyền ngăn cản anh L thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Phạm Thị Tuyết M phải chịu 300.000 (ba trăm nghin ) đông an phi ly hôn , đươc khấu trư vao tiên tam ứng án phí đã nộp theo biên lai sô 0029203 ngày 03 tháng 9 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 174/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:174/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về