Bản án 173/2021/HS-PT ngày 26/04/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 173/2021/HS-PT NGÀY 26/04/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 26 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 566/2020/TLPT-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020, đối với bị cáo Nguyễn Thị Thúy N và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 215/2020/HSST ngày 25/06/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm 1982; nơi ĐKHKTT: Tổ 18, Hàng K I, phường Dư Hàng K1, quận Lê C, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: ngõ 407 Vĩnh H, phường Vĩnh H1, quận Hoàng M, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Khắc Đ (đã chết) và và Vũ Thị L; có chồng là Phạm Quang T (bị cáo trong vụ án) và có 03 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 03/01/2019 đến ngày 12/01/2019 được thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; hiện tại ngoại; Có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Văn L1, sinh năm 1978; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: số 14/95 ngõ Hàng G, phường Cát D, quận Lê C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn K2 và bà Trần Thị T1; có vợ Nguyễn Thị T2 và có 02 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

(Trong vụ án này còn có bị cáo khác là Phạm Quang T lúc đầu có kháng cáo, nhưng sau đó đã rút toàn bộ kháng cáo và Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm)

* Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn L1: Luật sư Phạm Thanh B và luật sư Đỗ Đức B1 - Công ty luật TNHH Bảo N1, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Tại phiên tòa có Luật sư Biên, vắng mặt Luật sư Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15h00 ngày 03/01/2019 tại khu vực đầu ngõ Kho K8 Cảng Hà Nội, phường Thanh L2, quận Hai Bà T4, thành phố Hà Nội, Tổ công tác Cơ quan C sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an quận Hai Bà T4 và Công an phường Thanh L2 đã phát hiện bắt quả tang Phạm Văn L1, sinh năm 1978, trú tại số 14/95 ngõ Hàng G, phường Cát D, quận Lê C, thành phố Hải Phòng, Phạm Văn T5, sinh năm 1991, trú tại thôn 2, xã Hòa B1, huyện Thủy N2, Hải Phòng đang bốc xếp, chuyển các thùng catton bên trong chứa thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoải sản xuất, không có hóa đơn chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ hàng hóa (hàng nhập lậu) từ xe ô tô tải Isuzu BKS 15C- 181.80 sang xe ô tô Mazda BKS 29H-008.65 của Phạm Q1 T, sinh năm 1981 và vợ là Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm 1982, trú tại ngõ 407 Vĩnh H, phường Vĩnh H1, quận Hoàng M, Hà Nội. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật gồm 21 thùng catton bên trong mỗi thùng chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555, tống cộng là 10.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất (có niêm phong, đánh số thùng thứ tự từ 1 đến 21). Cụ thể đã thu giữ: Trên xe ô tô tải Isuzu BKS 15C-181.80 do Phạm Văn L1 điều khiển 18 thùng catton bên trong mỗi thùng chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Blend No.555 Gold, tổng cộng 9.000 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất. Trên xe ô tô tải Mazda BKS 29H-008.65 do Nguyễn Q1 T điều khiển 02 thùng catton bên trong mỗi thùng chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Blend No.555 Gold và 01 thùng catton bên trong chứa 500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu Blend No.555 Mandarin, tổng cộng 1.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất.

Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ:

- 01 xe ô tô nhãn hiệu Isuzu BKS 15C-181.80 cùng các giấy tờ xe ô tô trên (gồm: Giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô, Giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe ô tô và bản photo công chứng Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS 15C-181.80 mang tên Nguyễn Thị Bích C1, Giấy biên nhận thế chấp xe ô tô BKS 15C-181.80 của Ngân hàng TMCP Sài Gòn - Hà Nội C nhánh Hải P - Phòng giao dịch Lạch T6), 01 điện thoại di động Oppo A37F màu vàng đồng (thuê bao số 0976.392.326), 01 điện thoại di động Lenovo A328 màu trắng (thuê bao số 085.544.4078), 01 quyển sổ giao nhận hàng kích thước 17x24cm kèm 01 danh thiếp của xe Trung C2và 34.150.000 đồng của Phạm Văn L1;

- 01 điện thoại di động Nokia TA-1010 màu đen (thuê bao số 0902.020.788), 01 điện thoại di động Iphone 6S màu vàng (thuê bao số 037.244.4052) của Phạm Văn T5;

- 01 xe ô tô nhãn hiệu Mazda BT50 BKS 29H-008.65 màu trắng cùng các giấy tờ xe trên (gồm: Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Đỗ Văn Q, Giấy chứng nhận kiểm định xe và Giấy chúng nhận bảo hiểm TNDS xe ô tô trên) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S7 màu vàng (thuê bao số 0792.654.999) của Phạm Q1 T;

- 01 xe máy Honda Lead màu đen bạc BKS 15B1-233.65 cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe máy trên mang tên Hoàng Thị M1 và 01 điện thoại di động Nokia TA-1010 màu xanh da trời (thuê bao số 0868.154.191) của Nguyễn Thị Thúy N;

- 01 điện thoại di động Nokia TA-1010 màu đen (thuê bao số 0903.462.866) của Nguyễn Thị Bích C1.

Cùng ngày 03/01/2019, Cơ quan C sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội đã khám xét khẩn cấp kho hàng của vợ chồng Nguyễn Thị Thúy N và Phạm Quang T thuê tại Kho K8 Cảng Hà Nội và chỗ ở vợ chồng N3, T thuê trọ tại ngõ 407 Vĩnh H, phường Vĩnh H1, quận Hoàng M, Hà Nội, Kết quả khám xét, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 thùng catton bên trong chứa 70 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu hiệu 555 Gold do nước ngoài sản xuất tại kho hàng của vợ chồng N3, T (có niêm phong, đánh số thùng thứ tự số 22).

Cơ quan C sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội đã tiến hành trưng cầu giám định 22 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 thu giữ trong quá trình bắt quả tang và khám xét khẩn cấp trên.

Tại Kết luận giám định số 408 ngày 15/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: Bên trong 20 thùng catton ghi số thứ tự từ 01 đến 20, mỗi thùng có 500 bao (mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá nhãn hiệu B len d No.555 Gold, tổng số 10.000 bao thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất; Bên trong 01 thùng catton ghi số thứ tự là 21 có chứa 500 bao (mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá nhãn hiệu Blend No. 555 Mandarin là thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất; Bên trong 01 thùng catton ghi số thứ tự 22 có chứa 70 bao (mỗi bao có 20 điếu) thuốc lá điếu nhãn hiệu Blend No. 555 Gold là thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất. Tổng cộng là 10.570 bao thuốc lá điếu do nước ngoài sản xuất.

Qua điều tra xác định: Từ tháng 8/2018, Nguyễn Thị Thúy N cùng chồng là Phạm Quang T sinh sống bằng nghề buôn bán thuốc lá điếu nội địa trong đó có hàng thuốc là điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu (do nước ngoài sản xuất, không có hóa đơn chứng từ xuất xứ hàng hóa), không có giấy phép đăng ký kinh doanh. Hàng ngày, khi các khách hàng gọi điện cho N3 đặt mua thuốc lá điếu trong đó thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất, Nguyễn Thị Thúy N (số điện thoại 0868.154.191) gọi điện cho một phụ nữ tên là Hà Thị B2 (nhà ở Nam Đ, không rõ địa chỉ, số điện thoại 0965.111.412) hoặc một phụ nữ tên P (ở Hải Phòng, không rõ họ tên, địa chỉ, số điện thoại 0961.894.448) đặt mua các thùng thuốc lá điếu. Sau đó, N3 gọi điện cho Nguyễn Thị Bích C1, sinh 1982, trú tại số 8/78/46 Lạch T6, phường Hàng K1, quận Lê C, Hải Phòng (số điện thoại 0903.462.866) thuê vận chuyển thuốc lá điếu từ Hải Phòng đến kho hàng của N3 thuê tại Kho K8 Cảng Hà Nội, phường Thanh L2, quận Hai Bà T4, Hà Nội, với giá thuê vận chuyển là 115.000 đồng/1 thùng thuốc lá và thỏa thuận chuyển khoản tiền thuê vận chuyển cho C sau khi N3 nhận đủ hàng (chồng N3 là T chuyển trả tiền thuê vận chuyển). Sau khi đặt mua và thuê người vận chuyển, N3 đều thông báo lại cho chồng là Phạm Quang T biết về số lượng loại hàng, giá tiền hàng các thùng hàng thuốc lá điếu N3 đã đặt mua của Hà Thị B2 hoặc P và các khách hàng lẻ đặt mua hàng thuốc lá điếu của N3, để T đi nhận hàng và mang thuốc lá đi giao bán cho các khách hàng đã đặt mua của N3 trước đó và thu tiền hàng từ họ, đồng thời T chuyển khoản thanh toán tiền mua hàng thuốc lá điếu cho Hà Thị B2 hoặc cho P và chuyển khoản trả tiền công vận chuyển cho C2 (cụ thể T sử dụng tài khoản số 02001012930389 mang tên Phạm Quang T chuyển tiền vào tài khoản số 2001012918220 nếu mua hàng thuốc lá của Hà Thị B2, hoặc chuyển vào tài khoản số 02101013939533 nếu mua thuốc lá của P1- 03 tài khoản này đều mở tại Ngân hàng MaritimeBank Chi nhánh Hải P - Phòng giao dịch Lê C, chuyển tiền công vận chuyển vào tài khoản số 30300013978646 mang tên Nguyễn Thị Bích C1 mở tại Ngân hàng Saebank C nhánh Hồng B3, Hải P). Nguyễn Thị Bích C1 sau khi được N3 gọi điện thuê vận chuyển các thùng hàng thuốc lá điếu đã giao cho Phạm Văn T5 và Phạm Văn L1 (là lái xe và phụ xe do C thuê trả công tháng) điều khiển xe ô tô tải BKS 15C-18L80 của C vận chuyển chở hàng thuốc lá từ Hải Phòng đến Kho K8 Cảng Hà Nội giao cho N3, sau đó T mang đi tiêu thụ giao bán các thùng thuốc lá cho các khách hàng đã đặt mua trước với N3 và thu tiền hàng từ họ.

Khoảng 08h ngày 03/01/2019, sau khi các khách hàng gọi điện cho Nguyễn Thị Thúy N qua số điện thoại 0868.154.191 đặt mua hàng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 ngoại nhập (không rõ nước nào sản xuất), N3 gọi điện cho Hà Thị B2 (số điện thoại 0965.111.412) đặt mua 12 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold (loại bao vuông) và 01 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Mandarin (loại bao dẹt). Do Hà Thị B2 không đủ số lượng thuốc lá điếu bán theo yêu cầu của N3, nên N3 chỉ đặt mua của Bình 01 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Mandarin loại bao dẹt, với giá 402.000 đồng/cây thuốc lá và thỏa thuận Bình sẽ gửi hàng trên qua xe khách cho N3 trong ngày. Sau đó, N3 tiếp tục gọi điện cho P đặt mua 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold loại bao vuông, với giá 314.000 đồng/cây thuốc lá, P đồng ý và bảo N3 gọi điện liên hệ với T7 (là nhân viên của P , không rõ họ tên, địa chỉ, số điện thoại 0339,076.663) để liên hệ giao nhận hàng thuốc lá điếu trên, Sau đó, N3 gọi điện cho Nguyễn Thị Bích C1 thuê vận chuyển chở 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold trên với giá thuê là 115.000 đồng/01 thùng và cho C số điện thoại của T7 là người sẽ giao số hàng thuốc lá điếu trên cho C đề vận chuyển hàng. Sau khi đặt mua và thuê người vận chuyển, N3 nói lại cho chồng là Phạm Quang T biết thông tin về 21 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 ngoại nhập mà N3 đã đặt mua của P , Bình và dặn khi nào hàng về thì T ra Kho K8 Cảng Hà Nội để nhận 06 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold mang đi giao cho khách hàng lẻ ở Thường T8, Hà Nội đã đặt mua của N3, đồng thời để T chuyển trả tiền mua 21 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 vào tài khoản của Bình, P sau khi đã nhận được hàng, T đồng ý. Đến 14h cùng ngày 03/01/2019, N3 đi xe máy Honda Lead BKS 15B1-233.65 ra chân cầu Thanh T9 trên phố Tây T10, phường Trần P1, quận Hoàng M, Hà Nội nhận 01 thùng catton thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Mandarin loại bao dẹt do Hà Thị B2 gửi lên qua xe ô tô chở khách (không nhớ BKS xe), sau đó N3 quay về Kho K8 Cảng Hà Nội đưa cho T 01 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Mandarin trên để lên xe ô tô BKS 29H-008.65 và cùng T đứng đợi ở đầu ngõ Kho K8 Cảng Hà Nội để nhận 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold đã đặt mua của P ở Hải Phòng do T5 và L1 vận chuyển đến.

Cùng ngày 03/01/2019, sau khi nhận thuê vận chuyển 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 ngoại nhập trên cho N3, Nguyễn Thị Bích C1 giao cho Phạm Văn T5 và Phạm Văn L1 (là lái xe và phụ xe ô tô do C thuê) điều khiển ô tô tải Isuzu BKS 15C-181.80 gọi điện liên hệ vói T7 là người giao hàng (số điện thoại 0339.076.663) nhận 20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 và vận chuyển chở số hàng trên từ Hải Phòng đến Kho K8 Cảng Hà Nội giao cho N3, Triệu, C đưa cho L1 01 điện thoại di động Nokia (số thuê bao 0902.020.788) bên trong lưu số điện thoại của T7 , N3, T để liên lạc giao nhận số hàng trên. Khoảng 12h ngày 03/01/2019, theo yêu cầu của T7 , Phạm Văn L1 cùng Phạm Văn T5 điều khiển xe ô tô BKS 15C-181.80 đến khu vực xã An H2, huyện An D1, Hải Phòng thì có một người đàn ông lái xe ô tô tải (không rõ họ tên, địa chỉ, số BKS xe) đi đến và bốc xếp, chuyển 20 thùng catton thuốc lá điếu nhẵn hiệu 555 ngoại nhập, không có hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa sang xe ô tô BKS 15C-181.80 của L1 và T5 , sau đó T5 và L1 vận chuyển chở số hàng thuốc lá trên đi theo đường cao tốc từ Hải Phòng đến đầu ngõ Kho K8 Cảng Hà Nội để giao hàng cho N3, T như đã hẹn. Đến khoảng 15h00 cùng ngày 03/01/2019, khi L1 lái xe ô tô tải BKS 15C-181.80 vận chuyển số hàng thuốc lá nhãn hiệu 555 trên gần đến Kho K8 Cảng Hà Nội thì T5 nhận được điện thoại của T (số điện thoại 0792.654.999) hẹn đỗ xe ô tô ở đầu ngõ Kho K8 Cảng Hà Nội để T lấy trước hàng mang đi giao cho khách, số thùng thuốc lá còn lại thì T5 và L1 chuyển vào kho hàng của N3 tại Kho K8 Cảng Hà Nội. Tại đầu ngõ Kho K8 Cảng Hà Nội, trong khi L1 và T5 bốc xếp, chuyển được 2/20 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold trên từ xe ô tô tải BKS 15C-181.80 sang xe ô tô BKS 29H-008.65 của Triệu, N3 và đang chuyển đến thùng thuốc lá thứ 3 thì bị cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại cơ quan điều tra, các bị can Nguyễn Thị Thúy N, Phạm Q1 T, Phạm Văn L1, Phạm Văn T5, Nguyễn Thị Bích C1 khai nhận hành vi phạm tội nêu trên. Riêng bị can Phạm Quang T chỉ khai nhận vào sáng ngày 03/01/2019, T được N3 thông báo đã đặt mua thuốc lá nhãn hiệu 555 nhập lậu của “T7 ” ở Hải Phòng và bảo T lái xe ô tô ra lấy hàng cùng N3 ở Kho K8 Cảng Hà Nội, nhung không nói rõ số lượng bao nhiêu thùng. Trước khi nhận hàng vói Phạm Văn T5 và Phạm Văn T C ều ngày 03/01/2019, N3 có đưa cho T 01 thùng thuốc lá nhãn hiệu 555 Mandarin loại bao dẹt và bảo T nhận thêm 02 thùng thuốc lá nhãn hiệu 555 Gold loại bao vuông để lên xe ô tô BKS 29H-008.65 của T để mang đi tiêu thụ thì bị cơ quan Công an bắt quả tang. Căn cứ vào lời khai nhận của các bị can N3, L1 , T5 , C và của chính bị can T phù hợp với các tang vật chứng, tài liệu xác minh thu thập được, đủ cơ sở xác định Phạm Quang T đồng phạm với Nguyễn Thị Thúy N về hành vi buôn bán 10,570 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu trên.

Quá trình điều tra bị can Nguyễn Thị Thúy N khai: Trước khi đặt mua số thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất của Hà Thị B2 và P vào sáng ngày 03/01/2019, thì có 08 khách hàng (đều không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) đã gọi điện cho Nguyễn Thị Thúy N qua số điện thoại 0868.154,191 đặt mua tổng cộng là 16 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Gold loại vuông và 01 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 Madarin loại dẹt, gồm: chị N3 ở huyện Thanh T9, Hà Nội (số điện thoại 0978.331.071) đặt mua 02 thùng thuốc lá điếu 555 Gold; anh Q1 (số điện thoại 0966.651.429) đặt mua 02 thùng thuốc lá điếu 555 Gold; anh Tuấn ở Vĩnh H, Long B3, Hà Nội (số điện thoại 0969.166.340) đặt mua 02 thùng thuốc lá 555 Gold; anh H5 ở Văn Đ, Thanh T9, Hà Nội (số điện thoại 0975,328.958) đặt mua 01 thùng thuốc lá điếu 555 Goid; anh Q1 (số điện thoại 0932.372.986) đặt mua 01 thùng thuốc lá điếu 555 Gold; anh C ở Văn Đ, Thanh T9, Hà Nội (số điện thoại 0349.618.588) đặt mua 01 thùng thuốc lá điếu 555 Gold; chị Nhung (số điện thoại 0968.942.366) đặt mua 01 thùng thuốc lá điếu 555 Gold và 01 người đàn ông ở Thường T8, Hà Nội (số điện thoại 0335.709.501) đặt mua 06 thùng thuốc lá điếu 555 Gold và 01 thùng thuốc lá điếu 555 Madarin. Còn địa chỉ cụ thể của các khách hàng đặt hàng mua thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 trên, T là người biết rõ vì T phụ trách đi giao hàng và thu tiền hàng của khách. Bị can Phạm Quang T khai không biết việc N3 nhận đặt mua hàng thuốc lá 555 ngoại nhập của các khách hàng trên vào ngày 03/01/2019. T không biết địa chỉ cụ thể của các khách đặt mua hàng của N3, việc T đi giao hàng cho khách đặt mua do N3 bảo và cung cấp số điện thoại của họ để liên hệ giao hàng và trả tiền hàng.

Đã tiến hành xác minh, lấy lời khai các khách hàng đặt mua hàng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất ngày 03/01/2019 liên quan sử dụng các số điện thoại nêu trên theo lời khai của bị can Nguyễn Thị Thúy N, thấy: Chị Phạm Thị N3, sinh 1986, trú tại Cụm 6, Ích V, Vĩnh Q2, Thanh T9, Hà Nội (thuê bao sổ điện thoại 0978.331.071), anh Lê Q1 Anh, sinh 1982, trú tại thôn Lễ P2, Tiến D2, Đông A, Hà Nội (thuê bao số điện thoại 0966,651.4290) khai: Ngày 03/01/2019 chị N3, anh Q1 có gọi điện cho N3 chỉ đặt mua các thùng sữa, bánh kẹo nhưng không nhận đuợc hàng; chị Lê Thị Hồng H6, sinh 1984, trú tại số 12/ 343/12 Trần Khát C, Thanh N3, Hai Bà T4, Hà Nội (thuê bao số điện thoại 0968.942.366), anh Ngô Văn Q4, sinh 1988, trú tại số 17/15/51/2 Ngọc H7, Hoàng L3, Hoàng M, Hà Nội (thuê bao số điện thoại 0932.372.986) khai: Ngày 03/01/2019 chị N3, anh Q1 có gọi điện cho N3 đặt mua lần đầu 01 thùng thuốc lá điếu 555 ngoại nhập, nhung không nhận được hàng; anh Nguyễn Đức C1, sinh 1990, trú tại Cụm 13 Vĩnh N2,Vĩnh Q2, Thanh T9, Hà Nội (thuê bao số điện thoại 0349.618.588) khai: Từ tháng 3/2018 - 8/2018, anh C có đặt mua thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 ngoại nhập của Phạm Quang T qua số điện thoại 0868.154.191 khoảng 7-8 lần, mỗi lần mua khoảng 5 cây thuốc lá, đến ngày 03/01/2019 C có gọi điện lại cho T để xác nhận lại việc trả tiền đã mua hàng trên. Các bị can Triệu, N3 không thừa nhận giao bán hàng thuốc lá nhãn hiệu 555 ngoại nhập trên cho anh C, nên không có cơ sở xác định lời khai trên của anh C; chị Lưu Thị Hà, sinh 1992, địa chỉ Dương T12, Tô H9, Thường T8, Hà Nội (chủ thuê bao số điện thoại 0335.709.501) khai: không quen biết Phạm Q1 T, Nguyễn Thị Thúy N. Năm 2017 chị Hà có đưa số thuê bao điện thoại này cho chồng là anh Phạm Q1 Chính sử dụng, hiện C không có mặt tại địa P , không biết ở đâu, làm gì, không liên lạc được; anh Nguyễn Văn T13, sinh 1998, trú tại Ngọc T14, Tân Y, Bắc Giang (thuê bao số điện thoại 0969.166,340) xác minh hiện anh Tú không có mặt tại địa P , không rõ ở đâu, làm gì; về số điện thoại 0975.328.958, không có thông tin chủ sử dụng thuê bao này. Với tài liệu điều tra, xác minh thu thập được thấy, ngoài lời khai của bị can Nguyễn Thị Thúy N về việc các khách hàng trên gọi điện đặt mua hàng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu ngày 03/01/2019 trên, không có giấy tờ tài liệu chứng minh nào khác, các khách hàng gọi điện cho N3 sáng ngày 03/1/2019 hoặc không thừa nhận việc họ đặt mua hàng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 của N3, hoặc thừa nhận có đặt mua lần đầu thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 của N3 nhưng không nhận được hàng, hoặc không xác định họ tên, địa chỉ của người gọi điện đặt mua hàng theo lời khai của N3, không đủ căn cứ xác định những khách hàng này đồng phạm với bị can Nguyễn Thị Thúy N về hành vi mua bán thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu trong vụ án, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Ngoài lần bị bắt quả tang ngày 3/1/2019, Phạm Văn T5 và Phạm Văn L1 khai: Trong thời gian từ ngày 03/12/2018 đến ngày 03/01/2019, T5 và Lọi còn giao cho Nguyễn Thị Thúy N 07 lần với tổng số 125 thùng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất. Những lần giao nhận này T5 và L1 đều nhận hàng của đối tượng T7 ở Hải Phòng sau đó vận chuyển đến Kho K8 Cảng Hà Nội giao cho N3. Người trực tiếp nhận hàng là Nguyễn Thị Thúy N và một người đàn ông tên “H16” dược N3 thuê bốc xếp, chuyển hàng vào kho và ký nhận vào sổ giao hàng của L1 , chỉ có ngày 27/12/2018 N3 ký nhận hàng vào sổ giao hàng trên. Bị can Nguyễn Thị Bích C1 khai có nhận vận chuyển thuê hàng thuốc lá điếu cho N3 07 lần đã ghi trong sổ giao nhận hàng của L1 , nhưng C không rõ cụ thể loại hàng nào vì không trực tiếp vận chuyển, giao nhận hàng trên. Bị can Nguyễn Thị Thúy N khai: Trong sổ giao hàng của L1 có ghi các lần giao nhận hàng thuốc lá trên, người nhận hàng là Hải A1 (là tên gọi khác của T - chồng N3) nhưng không phải do N3 đặt hàng, người ký tên trong sổ tên Huy là lái xe ôm (không rõ họ tên, địa chỉ, không lưu số điện thoại), N3 không biết T có đặt mua hàng để nhờ H16 nhận hàng hộ không. N3 chỉ thừa nhận ngày 27/12/2018 N3 có đặt mua hàng và thuê C vận chuyển 20 thùng (tức hộp) thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 ngoại lậu và có ký tên nhận hàng “N3” vào sổ giao hàng của L1 , nhưng sau đó N3 thay đổi lời khai 20 thùng thuốc lá N3 nhận của L1 ngày 27/12/2018 là thuốc lá điếu nội địa do Việt Nam sản xuất, không phải là thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 do nước ngoài sản xuất. Bị can T không thừa nhận tham gia 07 lần giao nhận hàng thuốc lá điếu trên ghi trong Sổ giao nhận hàng của L1 . Đã cho đối chất giữa các bị can Phạm Văn T5, Phạm Văn L1, Nguyễn Thị Thúy N, Phạm Q1 T, nhưng các bên giữ nguyên lời khai. Căn cứ vào các tài liệu điều tra thu thập được, không đủ căn cứ xác định Nguyễn Thị Thúy N mua bán hàng cấm và thuê C , T5 và L1 vận chuyển 07 lần với tổng số 125 thùng thuốc lá nhãn hiệu 555 nhập lậu, nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Xác minh về các đối tượng tên “Hà Thị B2”, “P ”, “T7 ” theo lời khai của bị can Nguyễn Thị Thúy N là những người bán, giao hàng thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu cho N3, thấy: Công ty viễn thông Quân đội Viettel cung cấp thông tin số điện thoại 0965.111.412, chủ thuê bao là Hà Thị B2, sinh 1977, HKTT số 10/2/199 Trại C2, Lê C, Hải Phòng. Xác minh tại Công an phường Trại C2 cung cấp: Hà Thị B2 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên, hiện đã chuyển hộ khẩu đến địa chỉ số 190 Giải Phóng, phường T5 Thi, thành phố Nam Đ, tỉnh Nam Đ. Công an phường T5 Thi, thành phố Nam Đ cung cấp: Tại địa chỉ số 190 Giải P3, phường Tràng T18, không có ai tên là Hà Thị B2 sinh sống; Tổng Công ty Viettel cung cấp thông tin số điện thoại 0961.894.448 (là số điện thoại này N3 khai do P sử dụng), chủ thuê bao anh Lê Thanh C4, sinh 1985, HKTT số 122/16/24 Nguyễn Thượng H9, phường 1, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Công an phường 1, quận Gò V2, thành phố Hồ Chí Minh cung cấp: anh Lê Thanh C3, sinh 1985, HKTT tại địa chỉ trên, hiện không có mặt ở địa P ; Công ty Viettel cung cấp thông tin số điện thoại 0339.076.663 (là số điện thoại này N3 khai do T7 sử dụng), chủ thuê bao là anh Đào Đình Cường, sinh 1972, HKTT số 18D37 Đổng Q1 Bình, quận Ngô Q, thành phố Hải Phòng, cư trú số 2C Nguyễn B3, phường Đổng Q1 Bình, quận Ngô Q2, thành phố Hải Phòng. Anh Đào Đình C4 khai: Anh C4 không sử dụng số điện thoại trên và không biết ai sử dụng số điện thoại này, không quen biết aỉ tên là Nguyễn Thị Thúy N; Xác minh tại Ngân hàng MaritimeBank C nhánh Hải P - Phòng giao dịch Lạch T6, cung cấp: Chủ tài khoản số 02101013939533 (theo lời khai của T là của P ) mở tại ngân hàng MSB C nhánh Hải P là Lương Thị L8, sinh 1984, HKTT xã Tây H9, Tiên L2, thành phố Hải P, địa chỉ số 1 D50 Đổng Q1 Bình, phường Ngô Q2, Hải Phòng. Xác minh tại Công an xã Tây H7, huyện Tiên L2, thành phố Hải P cung cấp hiện Lương Thị L8 không có mặt tại địa P .

Đối với các đối tượng Hà Thị B2, Lương Thị L8, tên “P”, “T7 ”, qua trình điều tra chưa xác định được họ tên, địa chỉ, lai lịch của các đối tượng trên để lấy lời khai làm rõ hành vi mua bán thuốc lá điếu nhãn hiệu 555 nhập lậu với các bị can Nguyễn Thị Thúy N, Phạm Quang T trong vụ án. Nên ngày 28/8/2019, Cơ quan C sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định tách tài liệu số 112 liên quan đến hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu 555 nhập lậu của các đối tượng này để điều tra, xử lý sau.

Đối với anh Tạ Q1 D, sinh 1976, trú tại số 23 An T18, phường Quốc Tử G1, quận Đống Đ4, Hà Nội (là giám đốc Công ty cổ phần đầu tư thương mại dịch vụ Gia H10): Năm 2017 Công ty Gia H10 có ký hợp đồng thuê toàn bộ 850m2 Kho K8 Cảng Hà Nội để kinh doanh dịch vụ cho thuê kho bãi, lưu giữ hàng hóa và được C làm 4 gian nhà kho. Ngày 22/8/2018 anh D1 (là giám đốc Công ty Gia H10) có ký hợp đồng cho thuê 01 gian kho tại Kho K8 Cảng Hà Nội vói Nguyễn Thị Thúy N, để làm nơi cất giữ hàng hóa tiêu dùng chủ yếu là bánh kẹo, với giá thuê là 4.000.000 đồng/tháng, thời hạn đóng tiền 6 tháng/1 lần. Quá trình cho thuê nhà xưởng, anh D1 thấy có một vài xe ô tô tải đến giao hàng cho Nguyễn Thị Thúy N chủ yếu là các thùng catton in nhãn mác bánh ngọt. Anh D1 không biết N3 buôn bán, tàng trữ hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu trên, do vậy không có cơ sở xác định anh Tạ Quang D1 có hành vi đồng phạm với bị can Nguyễn Thị Thúy N về hành vi mua bán thuốc lá điếu nhập lậu trên trong vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 215/2020/HS-ST ngày 25/6/2020, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thị Thúy N, Phạm Quang T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Bị cáo Phạm Văn L1 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt:

- Nguyễn Thị Thúy N 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 03/01/2019 đến ngày 12/01/2019.

- Phạm Quang T 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, giam 03/01/2019.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt Phạm Văn L1 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 03/01/2019 đến ngày 12/01/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01/7/2020, bị cáo Phạm Văn L1 kháng cáo kêu oan. Ngày 03 và 07/7/2020, các bị cáo Nguyễn Thị Thúy N, Phạm Quang T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Nhưng ngày 29-01-2021 bị cáo T đã rút kháng cáo và Tòa án cấp cao đã có Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

Tai phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Thị Thúy N đã tự nguyện rút đơn kháng cáo, bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng pháp luật để xét xử đối với bị cáo là đúng pháp luật, mức hình phạt 9 (chín) năm tù đối với bị cáo đã thỏa đáng, phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo; do đó, bị cáo xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo, bị cáo chấp nhận đi thi hành án để sớm về với gia đình và xã hội.

Bị cáo Phạm Văn L1 giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo, bị cáo tiếp tục kêu oan, bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội vận chuyển hàng cấm như Tòa án cấp sơ thẩm qui kết cho bị cáo, vì bị cáo không biết hàng hóa bị cáo vận chuyển là thuốc lá loại hàng cấm Đại diện Việt kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Mặc dù bị cáo L1 kêu oan, nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đặc biệt là toàn bộ lời khai của bị cáo, bao gồm: Biên bản hỏi cung lấy lời khai và các bản tự khai của bị cáo và nhiều tài liệu, chứng cứ khác nữa thì đã có đủ chứng cứ để khẳng định: Bị cáo Phạm Văn L1 bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án về tội “Vận chuyển hàng cấm” là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật và bị cáo không bị xét xử oan. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo, để giữ nguyên bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Phạm Văn L1.

Người bào chữa cho bị cáo L1 : Luật sư Đỗ Đức B1 đã nêu ra rất nhiều vấn đề, trong đó có vấn đề về việc cán bộ điều tra tiến hành lấy lời khai đối với bị cáo không đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự, vì theo bị cáo L1 trình bày về bản cung của bị cáo thì có nhiều bản cung được ký khống và kể cả bản tự khai, được cho là do bị cáo viết; đáng chú ý là cần làm rõ các chữ ký của Phạm Văn L1 trong các bản cung và bản tự khai của bị cáo để xác định đó có phải chính xác là chữ ký, chữ viết của bị cáo L1 hay không? Vì vậy, Luật sư đề nghị xử hủy bản án sơ thẩm để tiến hành điều tra lại, trong đó có việc giám định lại tất cả chữ ký của bị cáo L1 có trong hồ sơ vụ án để có căn cứ giải quyết vụ án được chính xác, đúng pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng: Quá trình điều tra và giải quyết vụ án thì các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, như: Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán đã tuân thủ và thực hiện đúng như quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Vì vậy, mọi quyết định và hành vi tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đều hợp lệ và phù hợp với quy định của pháp luật, nên không có thắc mắc hoặc khiếu nại gì.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thị Thúy N đã rút toàn bộ nội dung kháng cáo. Xét việc rút kháng cáo của bị cáo là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật; do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận để đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo N3 như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cấp phúc thẩm. Bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo N3 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo và bị cáo N3 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Về nội dung: Căn cứ lời khai của Nguyễn Thị Thúy N, Phạm Quang T và Phạm Văn L1 trong quá trình điều tra vụ án thì đã phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Bích C1 là người thuê bị cáo L1 chở thuốc lá từ Hải Phòng lên Hà Nội để giao hàng cho vợ chồng N3-T (các BL từ 305-308) và Phạm Văn T5 (các BL 261-278) là người đi cùng xe ô tô với L1 để nhận hàng và giao hàng, cũng như Biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thì đã thể hiện.

Đối với bản thân bị cáo Phạm Văn L1 thì N3 sau khi vụ án bị phát hiện thì tại Biên bản phạm pháp quả tang và tất cả các lời khai khác, cũng như bản tự khai trong quá trình điều tra thì bị cáo đều đã khai nhận là bị cáo biết hàng vận chuyển là thuốc lá ngoại 555 trước khi vận chuyển từ Hải P lên Hà Nội (các BL 219-250; 839-841). Lời khai của bị cáo L1 phù hợp với lời khai của anh Phạm Văn T5 (người cùng đi trên xe ô tô với bị cáo để nhận hàng và bốc hàng). Lời khai của bị cáo L1 và anh T5 phù hợp với nhau đó là mặt hàng thuốc lá 555. Lời khai của bị cáo L1 ở giai đoạn điều tra còn phù hợp với lời khai của chị Nguyễn Thị Bích C1 là người thuê bị cáo L1 chở hàng lên Hà Nội để giao cho vợ chồng N3 – T và lời khai của bị cáo cũng phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Thúy N là người đã nhiều năm giao nhận hàng mà L1 là người giao hàng. Như vậy, với các tài liệu, chúng cứ có trong hồ sơ vụ án thì hoàn toàn có đủ căn cứ pháp luật để khẳng định bị cáo Phạm Văn L1 đã bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” như bản án hình sự sơ thẩm của TAND thành phố Hà Nội là có căn cứ pháp luật. Việc bị cáo L1 thay đổi lời khai sang kêu oan phải chăng là do hiện tại anh T5 người đi giao nhận hàng cùng bị cáo L1 đã chết và chị Nguyễn Thị Bích C1 bị bệnh thần kinh nên đã kêu oan chỉ là hòng trốn tránh trách nhiệm hình sự trước pháp luật mà thôi. Do bị cáo L1 chỉ kháng cáo kêu oan nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không xem xét về mức hình phạt tù của bị cáo. Vì vậy, giữ nguyên phần hình phạt tù của bị cáo như quyết định của bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Phạm Văn L1 kháng cáo không được chấp nhận, nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên và căn cứ vào các Điều 348; 355; 356 Bộ luật tố tụng hình sự,

QUYẾT ĐỊNH

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Nguyễn Thị Thúy N. Bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo N3 đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm (26-4-2021) Không chấp nhận nội dung kháng cáo kêu oan của bị cáo Phạm Văn L1, để giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 215/2021-HSST ngày 25-6-2020 của TAND thành phố Hà Nội đối với bị cáo L1.

Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn L1 phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 191; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Phạm Văn L1 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 03/01/2019 đến 12/01/2019).

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo Nguyễn Thị Thúy N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; riêng bị cáo L1 phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (26- 4-2021) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 173/2021/HS-PT ngày 26/04/2021 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:173/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về