Bản án 1727/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1727/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 253/2017/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2017 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5109/2018/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1982;

Đa chỉ: Đường M, phường N, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Lê Thanh D (Le Dung T), sinh năm 1983. Quốc tịch: Hoa Kỳ.

Địa chỉ: USA (Đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 18/4/2017, bản tự khai ngày 25/8/2017 của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trình bày: Bà và ông Lê Thanh D (Le Dung T) tự nguyện kết hôn theo giấy đăng ký kết hôn số 3929, quyển số 13 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 11/11/2010. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống chung với nhau được một thời gian ngắn, đến cuối năm 2010 ông Lê Thanh D (Le Dung T) trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc, bà D vẫn sống ở Việt Nam. Sau khi về Hoa Kỳ hai vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc nhưng từ tháng 01/2016 đến nay thì không còn liên lạc với nhau nữa. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà làm đơn gửi Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị ly hôn với ông Lê Thanh D (Le Dung T) để có điều kiện ổn định cuộc sống.

Con chung: Không có.

Tài sản chung và nợ chung: Không có.

Ngày 27 tháng 9 năm 2017, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có công văn số 489/UTTPDS- TA30 về thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp gửi Bộ Tư pháp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thông báo việc thụ lý vụ án, tiến hành lấy lời khai và thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần thứ nhất vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 04 tháng 4 năm 2018, lần thứ hai vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 24 tháng 4 năm 2018 và xét xử công khai vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 24 tháng 7 năm 2018, lần thứ hai vào lúc 14 giờ 00 phút ngày 24 tháng 10 năm 2018 đối với ông Lê Thanh D (Le Dung T).

Ngày 09/4/2018, Bộ Tư pháp đã có công văn số 1170/BTP-PLQT về kết quả thực hiện ủy thác tư pháp. Theo đó, Cơ quan có thẩm quyền của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ không thực hiện được ủy thác tư pháp nêu trên do đương sự không còn ở tại địa chỉ được yêu cầu.

Ngày 24 tháng 7 năm 2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có thông báo số 484/TA-TB về việc thông báo thời gian mở phiện họp hòa giải vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 25 tháng 10 năm 2018, thời gian mở phiên tòa vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 26 tháng 11 năm 2018 đối với ông Lê Thanh D (Le Dung T).

Ngày 24/7/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có công văn số 484/TAND-CV gửi Đại sứ quán Việt Nam tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đề nghị niêm yết công khai tại trụ sở cơ quan và đăng tải bản dịch của Thông báo số 484/TA-TB ngày 24 tháng 7 năm 2018 kèm theo công văn trên Cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán Việt Nam tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

Ti phiên tòa sơ thẩm:

Ngày 01/11/2018, nguyên đơn bà Nguyễn Thị D có đơn xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ án, hòa giải và xét xử vì lý do bận công tác xa.

Bị đơn ông Lê Thanh D (Le Dung T) đã được Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành ủy thác tư pháp hợp lệ để tham gia tố tụng tại Tòa án nhưng ông Lê Thanh D (Le Dung T) không có văn bản trả lời và vắng mặt không lý do.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán chủ tọa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Nguyên tắc xét xử, thành phần hội đồng xét xử, sự có mặt của các thành viên trong hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; Phạm vi xét xử sơ thẩm” tại phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị D được ly hôn với ông Lê Thanh D (Le Dung T).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết: Xét yêu cầu của nguyên đơn thuộc tranh chấp về ly hôn, bị đơn ông Lê Thanh D (Le Dung T) có quốc tịch Hoa Kỳ, đang cư trú hợp pháp tại Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về vắng mặt đương sự: Xét bà Nguyễn Thị D có đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Ông Lê Thanh D (Le Dung T) đã được Tòa án nhân Thành phố Hồ Chí Minh đăng tin trên Cổng thông tin điện tử thông báo thời gian xét xử nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bà L và ông Lê Thanh D (Le Dung T) theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị D, Hội đồng xét xử nhận thấy:

n cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số 3929, quyển số 13 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 11/11/2010 có đủ cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị D và ông Lê Thanh D (Le Dung T) là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, bà D khai rằng hai vợ chồng sống chung với nhau được một thời gian ngắn, đến cuối năm 2010 ông Lê Thanh D (Le Dung T) trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc, bà D vẫn sống ở Việt Nam. Sau khi về Hoa Kỳ hai vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc nhưng từ tháng 01/2016 đến nay thì không còn liên lạc với nhau nữa. Xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau san sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; nghĩa vụ sống cùng với nhau trong khi hai vợ chồng bà Nguyễn Thị D và ông Lê Thanh D (Le Dung T) mỗi người một nơi, tình cảm vợ chồng càng không có điều kiện vun đắp nên bà D yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Lê Thanh D (Le Dung T) là có cơ sở để chấp nhận.

Con chung: Bà Nguyễn Thị D khai không có.

Tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị D khai không có.

[3] Án phí, chi phí tố tụng khác:

Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà Nguyễn Thị D phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016;

Chi phí tố tụng khác:

Bà Nguyễn Thị D phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài. Bà D đã nộp đủ.

các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d Khoản 1, Khoản 2 Điều 469, điểm c Khoản 6 Điều 477, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 53, Điều 54, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;

Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016;

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D.

Quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị D được ly hôn với ông Lê Thanh D (Le Dung T).

Giấy chứng nhận kết hôn số 3929, quyển số 13 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 11/11/2010 cho bà Nguyễn Thị D và ông Lê Thanh D (Le Dung T) không còn giá trị pháp lý.

Con chung: Không có.

Tài sản chung, nợ chung: Không có.

2/ Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2016/0034197 ngày 12/5/2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Về chi phí tố tụng khác: Bà Nguyễn Thị D phải chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài. Bà D đã nộp đủ.

3/ Án xử sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bà Nguyễn Thị D nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Đối với ông Lê Thanh D (Le Dung T) thời hạn kháng cáo bản án là 01 (Một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1727/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1727/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về