Bản án 1724/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1724/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 26 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử công khai vụ án thụ lý số 09/2017/TLST-HNGĐ ngày 03/01/2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5009/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Tiêu Quốc T, sinh năm 1976 (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: Phường B, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Bà Cao Mỹ Q, sinh năm 1974 (vắng mặt) Quốc tịch: Hoa Kỳ

Địa chỉ: Seattle WA 98106 USA.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, ông Tiêu Quốc T trình bày:

Ông và bà Cao Mỹ Q tự nguyện kết hôn và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 14/6/2000 và ghi vào sổ kết hôn số 2397, quyển số 17 ngày của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi kết hôn, bà Cao Mỹ Q trở về Hoa Kỳ, ông bà sống xa cách, khác biệt về văn hóa, quan điểm sống, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh ngày càng trầm trọng. Do đó tình cảm vợ chồng không còn, mỗi người có cuộc sống riêng của mình. Nhận thấy cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên ông yêu cầu được ly hôn với bà Cao Mỹ Q.

Về con chung: Không có.

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Tòa án không thể tiến hành hòa giải đoàn tụ được vì bà Cao Mỹ Q đang cư trú tại Hoa Kỳ.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Ông Tiêu Quốc T và bà Cao Mỹ Q đều vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với các đương sự vắng mặt, Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của ông Tiêu Quốc T, cho ông Tiêu Quốc T được ly hôn với bà Cao Mỹ Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Tiêu Quốc T đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh có đơn xin ly hôn với bà Cao Mỹ Q hiện đang sinh sống tại Hoa Kỳ. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 37, Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Tiêu Quốc T tham gia phiên tòa vào lúc 8 giờ 00 phút ngày 26/11/2018 nhưng ông T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Đối với bà Cao Mỹ Q, Tòa án đã tiến hành thủ tục ủy thác tư pháp tống đạt Thông báo về việc thụ lý sơ thẩm số 46/UTTPDS-TA ngày 23/3/2017 cho bà Cao Mỹ Q, cư trú tại địa chỉ: Seattle WA 98106 USA theo quy định của pháp luật. Theo Công văn số 647/BTP-PLQT ngày 07/3/2018 của Bộ Tư pháp về kết quả ủy thác tư pháp, cơ quan có thẩm quyền của Hoa Kỳ không thực hiện được ủy thác tư pháp nêu trên do không có người nhận ở địa chỉ được yêu cầu. Tòa án đã thông báo thời gian mở phiên tòa xét xử vụ án vào lúc 8 giờ ngày 26/11/2018 đối với bà Cao Mỹ Q trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện Việt Nam tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay bà Cao Mỹ Q vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 228 và điểm c Khoản 6 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn ngày 14/6/2000 và ghi vào sổ kết hôn số 2397, quyển số 17 ngày của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, quan hệ hôn nhân của ông Tiêu Quốc T và bà Cao Mỹ Q là hợp pháp.

Sau khi kết hôn, bà Cao Mỹ Q đã trở về Hoa Kỳ, còn ông T sinh sống ở Việt Nam. Do khoảng cách về địa lý, hai bên không có điều kiện gần gũi, chăm sóc nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng bị phai nhạt, hạnh phúc vợ chồng không có. Từ năm 2000 đến nay, bà Cao Mỹ Q không liên lạc cũng không trở lại Việt Nam để thăm ông Tiêu Quốc T. Ông T xác định tình cảm không còn nên dứt khoát xin ly hôn với bà Cao Mỹ Q. Về phía bà Cao Mỹ Q, Tòa án đã thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật để thông báo cho bà Cao Mỹ Q biết về việc thụ lý, giải quyết vụ án nhưng ông không có phản hồi, cũng không có mặt tại phiên tòa. Điều này chứng tỏ bà Cao Mỹ Q không quan tâm đến cuộc hôn nhân này nữa.

Xét thấy mục đích hôn nhân chỉ có thể đạt được khi vợ chồng thương yêu, quan tâm, chăm sóc nhau. Đây cũng là tình cảm và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, nay tình cảm giữa ông Tiêu Quốc T và bà Cao Mỹ Q không còn, vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Do đó, ông Tiêu Quốc T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với bà Cao Mỹ Q là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Nguyên đơn khai không có nên không xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn khai không có nên không xét.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ông Tiêu Quốc T phải chịu theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Ông Tiêu Quốc T và bà Cao Mỹ Q có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 37, Điều 40, Điều 147, Điều 228, Điều 262, Điều 273, Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tiêu Quốc T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Tiêu Quốc T được ly hôn với bà Cao Mỹ Q.

2. Về con chung: Không có.

3 3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Ông Tiêu Quốc T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 200.000 (hai trăm ngàn) đồng ông Tiêu Quốc T đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số AA/2016/0031737 ngày 20 tháng 12 năm 2016 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Tiêu Quốc T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Ông Tiêu Quốc T được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Bà Cao Mỹ Q có quyền kháng cáo trong hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 1724/2018/HNGĐ-ST ngày 26/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1724/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về