Bản án 172/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 172/2020/HS-ST NGÀY 30/10/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 10 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 175/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 170/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Mai Tiến D, sinh ngày 29/5/1991 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ngõ 2, đường Bông L, tổ 3, khối 14, phường Hoàng Văn T, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn V, sinh năm 1962 và bà Tô Thị H, sinh năm 1963; vợ tên Vy Thị H, sinh năm 1991; con có 01 con sinh năm 2010; tiền án: Năm 2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xử phạt 15 (mười lăm) tháng tù giam về tội ‟Trộm cắp tài sản”, theo Bản án số 13/2016/HS-ST ngày 26/01/2016, đã chấp hành xong hình phạt từ ngày 23/01/2017 chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; về nhân thân: Năm 2011 bị Ủy ban nhân dân thành phố Lạng Sơn quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội tỉnh Lạng Sơn với thời hạn 02 (hai) năm; năm 2014 bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 (chín) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 58/2014/HS-ST ngày 30/10/2014; bị cáo bị tạm giữ tạm giam từ ngày 26/7/2020 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- B hi:

1. Anh Vy Mạnh L, sinh năm 1992. Địa chỉ: Đường Đèo G, khối Đại T, phường Chi L, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, có mặt.

2. Anh Lê Duy V, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn T, xã Mai p, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Phương L, sinh năm 1956. Địa chỉ: Số 20, đường Trần Quang K, phường Chi L, thành phố Lạng S, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mai Tiến D là đối tượng nghiệm ma túy heroine từ năm 2011, do không có tiền sử dụng ma túy nên tháng 6 năm 2020 bị cáo đã thực hiện 02 hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ ngày 22/6/2020, tại khu vực đường Đèo Giang, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn, bị cáo đã có hành vi trộm cắp của anh Vy Mạnh L một chiếc lồng chim bên trong có một con chim họa mi treo cạnh nhà, mang ra chợ bờ sông, phường Vĩnh T bán cho một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ được 200.000đ, bị cáo mang đi mua ma túy sử dụng hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 09 giờ ngày 29/6/2020 tại khu vực thôn Trung C, xã Mai P, thành phố Lạng S bị cáo đã có hành vi trộm cắp của anh Lê Duy V một chiếc lồng chim bên trong có 01 con chim Khướu treo trong sân nhà, sau đó đem bán cho bà Nguyễn Lan P được 600.000đ đem đi mua ma túy về sử dụng hết.

Tại biên bản định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 67/DGTSTT và số 69/ĐGTSTT ngày 13/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định: Trị giá con chim Họa Mi và một chiếc lồng chim là 2.500.000đ; trị giá con chim Khướu và một chiếc lồng chim là 1.600.000đ. Tổng giá trị là 4.100.000đ.

Tại bản cáo trạng số 170/CT-VKS ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Mai Tiến D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Mai Tiến D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng đã truy tố.

Bị hại anh Vi Mạnh L khai: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 22/6/2020 khi đi làm về, anh phát hiện chiếc lồng chim bên trong có một con chim Họa Mi anh nuôi treo cạnh nhà bị mất. Sau khi xem lại camera của gia đình, anh phát hiện có một người đàn ông mặc áo màu xanh, quần ngắn màu đen, đi bộ vào cổng nhà lấy trộm chiếc lồng chim và con chim Họa Mi chạy đi, nên anh đã đến cơ quan công an trình báo yêu cầu xử lý theo quy định của pháp luật và yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền là 4.000.000đ giá trị cả lồng chim và chim, tuy nhiên tại phiên tòa, sau khi nghe bị cáo trình bày về hoàn cảnh gia đình khó khăn nên anh chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc lồng chim và giá trị con chim, tổng là 1.500.000đ, ngoài ra không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Bị hại anh Lê Duy V vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra anh Lê Duy V khai: Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 29/6/2020 sau khi đi làm về anh phát hiện chiếc lồng chim và con chim Khướu anh nuôi treo góc bên trái nhà bị mất. Đặc điểm là con chim Khướu bạc má, lông màu đen, có hai chấm trắng ở trên mặt, trên mỏ có vết xước; lồng để nhốt chim có hình trụ tròn làm bằng tre, màu vàng nâu, cao khoảng 60cm. Ngoài ra trên chiếc lồng chim có một chiếc áo màu xám đã cũ bỏ đi anh dùng để che lồng chim. Hiện anh đã được nhận lại toàn bộ tài sản bị mất nên không có ý kiến yêu cầu bồi thường gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Lan P trình bày: Ngày 29/6/2020 khi đang ngồi trông cửa hàng ở đường 17/10 thì có 01 nam thanh niên đi xe điện màu đỏ mang theo một lồng chim bên trong có một con chim Khướu bảo đem bán. Do không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có, nên bà đã đồng ý mua với giá 600.000đ. Sau đó bà đã nộp lại lồng chim bên trong có một con chim Khướu cho cơ quan công an, còn số tiền bà đã bỏ ra mua chim giá trị không lớn nên bà không yêu cầu bồi thường.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Mai Tiến D phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; các Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự: Đề nghị xử phạt bị cáo Mai Tiến D từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Về bồi thường dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho bị hại anh Vi Mạnh L số tiền là 1.500.000đ; còn bị hại anh Lê Duy V không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng. Các quyết định, hành vi tố tụng đã thực hiện là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại đối với quyết định, hành vi của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo đã khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản xác minh hiện trường, biên bản định giá cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; do đó có đủ căn cứ để khẳng định: trong hai ngày 22 và 29 tháng 6 năm 2020, bị cáo Mai Tiến D đã có hành vi trộm cắp của anh Vi Mạnh L 01 chiếc lồng chim và 01 con chim Họa Mi trị giá 2.500.000đ và trộm cắp của anh Lê Duy V 01 chiếc lồng chim và 01 con chim Khướu trị giá 1.600.000đ nhưng trong thời gian bị cáo chưa được xóa án tích của bản án số 13/2016/HS-ST ngày 26/01/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn đã xử phạt bị cáo 15 (mười lăm) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Mai Tiến D đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất an ninh trật tự tại địa phương.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khấn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong thời gian ngắn, từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 6 năm 2020 bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, do vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện chỉ nhằm mục đích có tiền mua ma túy để thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy bất hợp pháp của bản thân. Ngoài ra, năm 2011 bị cáo đã bị Ủy ban nhân dân thành phố Lạng Sơn quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc với thời hạn 02 năm và năm 2014 bị cáo còn bị Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 (chín) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 58/2014/HS-ST ngày 30/10/2014 đã được xóa án tích, như vậy thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, đã được pháp luật cải tạo nhiều lần nhưng vẫn tiếp tục phạm tội, thể hiện là người thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện.

[6] Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Hồi đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đủ để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về bồi thường dân sự: Bị hại anh Lê Duy V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với yêu cầu của bị hại anh Vi Mạnh L yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc lồng chim và 01 con chim Họa Mi với tổng số tiền là 1.500.000đ là có căn cứ chấp nhận buộc bị cáo Mai Tiến D bồi thường.

[10] Đối với hành vi bị cáo Mai Tiến D khai ngày 15/6/2020 tại khu vục đường Trần Đăng N, thôn Hoàng T, xã Hoàng Đ, thành phố Lạng S, bị cáo còn chiếm đoạt 01 can nhựa đựng khoảng 10L mật ong của một người đàn ông. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được bị hại nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này.

[11] Đối với bà Nguyễn Lan P là người mua lồng chim và con chim Khướu với bị cáo, không biết đó là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý. Số tiền bà Nguyễn Lan P bỏ ra mua con chim Khướu và lồng chim, bà Nguyễn Lan P không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Bị cáo phải chịu án phí hình sụ sơ thẩm và án phí dân sự có giá nghạch để sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[13] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và các Điều 38; 50 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ các Điều 584; 586; 589 và Điều 357 của Bộ luật Dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Mai Tiến D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Mai Tiến D 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/7/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Mai Tiến D phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Vi Mạnh L số tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm ngàn đồng).

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Mai Tiến D phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự giá ngạch để sung Ngân sách Nhà nuớc.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và nguời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 172/2020/HS-ST ngày 30/10/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:172/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về