Bản án 172/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 172/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 162/2019/TLST-HS, ngày 08 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh ngày: 03/8/1978, tại P, tỉnh Thái Nguyên.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm C, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam, tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T (Đã chết) và bà: Nguyễn Thị C, sinh năm: 1954. Gia đình bị cáo có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; có vợ là: Ngọ Thị L, sinh năm: 1984 và 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2005; Tiền án, tiền sự: Không có;

Nhân thân: Ngày 29/08/2019 Nguyễn Văn H, bị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Đồng Hỷ, khởi tố về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có", ngày 19/11/2019 bị TAND huyện Đồng Hỷ xử phạt 12 tháng tù.

Bị cáo không bị bắt tạm giữ, tạm giam trong vụ án án này. Hiện bị cáo đang đi bị tạm giam trong vụ án khác. (Có mặt tại phiên tòa)

- Người làm chứng:

1. Anh Vũ Văn K, sinh năm: 1972; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

2. Anh Triệu Văn T, sinh năm: 1980; Nơi cư trú: Xóm Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên.

(Đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 09/8/2019 anh Vũ Văn K và Triệu Văn T trộm cắp được 01 chiếc cưa lốc cắt gỗ nhãn hiệu Thụy Điển tại nhà của anh Nguyễn Văn H (Sinh năm 1994; Trú quán: xóm Đ, xã H, Đ, tỉnh Thái Nguyên). Sau khi trộm cắp được tài sản trên, cả hai đem đến nhà Nguyễn Văn H với mục đích để bán cho H. Khi đến nơi, Trìu đứng ở cổng nhà H chờ, còn K mang cưa vào nhà gặp H. Sau khi thỏa thuận, H đồng ý mua chiếc cưa trên với giá 800.000 đồng, biết K và T là những người nghiện ma túy nên H đã quy đổi ra hai gói ma túy Heroine tương đương với số tiền 800.000 đồng. Sau khi nhận được ma túy, K và T đến khu vực đồi cây xóm C, xã T cùng nhau sử dụng hết số ma túy nêu trên.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản anh Nguyễn Văn H đã trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ đề nghị giải quyết.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được, Hồi 18 giờ 00 phút ngày 21/8/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp về người, chỗ ở của Nguyễn Văn H tại xóm Cầu M, xã T, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Quá trình khám xét đã thu giữ các tài liệu đồ vật gồm:

- 01 túi nilon bên trong có các cục chất bột màu trắng phát hiện ở túi màu đen treo trên tường tại buồng (H khai nhận là ma túy Heroine của H).

- 01 túi nilon nhỏ màu trắng bên trong có các hạt nhỏ màu trắng và một viên thuốc nén màu hồng phát hiện tại giường ngủ của Nguyễn Văn H. H khai nhận là ma túy đá và hồng phiến của H; 01 cân tiểu ly dạng điện tử màu đen, bên ngoài có chữ POCKET SCALE và số tiền 2.500.000 đồng ở túi quần đang mặc của Nguyễn Văn H.

Hồi 09 giờ 10 phút ngày 22/8/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ phối hợp cùng phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn H:

- Số chất bộ màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 có khối lượng là 5,255 gam, lấy toàn bộ 5,255 gam (không phẩy không chín một gam) và lấy mẫu giám định (ký hiệu A2).

- Các hạt nhỏ màu trắng trong túi nilong có khối lượng 0,091 gam (không phẩy không chín một gam) và lấy mẫu giám định ký hiệu A3.

- 01 viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu A2 có khối lượng là 0,107 gam (không phẩy một không bảy gam) và lấy mẫu giám định ký hiệu A4. Tại bản kết luận giám định số: 1216/KL-PC09 ngày 30/8/2018 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu các cục chất bột màu trắng trong phong bì A2 gửi giám định là ma túy, loại Hêrôin, có khối lượng là 5,255g (Năm phẩy hai năm năm gam); Mẫu các hạt nhỏ màu trắng trong phong bị niêm phong ký hiệu A3 gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,091 gam (Không phẩy không chín một gam) và Mẫu viên thuốc nén màu hồng trong phong bì ký hiệu A4 gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng là 0,107 gam (Không phẩy một không bảy gam).

Ngày 17/09/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, đã chuyển toàn bộ hồ sơ cùng vật chứng liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn H đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình để điều tra theo thẩm quyền.

Tại cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận: Ngoài lần bán ma túy cho K và T vào ngày 09/8/2019 ra thì vào khoảng giữa tháng 4/2019 H đã bán cho Triệu Văn T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng, ngày 12/8/2019 H đã bán cho Vũ Văn K 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng (những lần mua bán ma túy đều tại nhà ở của H). Về nguồn gốc số ma túy mà H bán cho K, T và số ma túy H tàng trữ tại nhà, H khai nhận trước đó H mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ ở khu vực xã K, huyện P và một người đàn ông không quen biết tại khu vực Bến xe khách Thái Nguyên. Sau khi mua được ma túy, H đem về sử dụng hết một ít còn lại H đã đem bán cho Vũ Văn K và Triệu Văn T, số còn lại bị thu giữ như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án gồm: 04 bì niêm phong ký hiệu A2, A3, A4, LK bên trong có chứa ma túy và vỏ bao mẫu được hoàn lại sau giám định; 01 cân tiểu ly, hiện đang được lưu giữ và bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Bình chờ xử lý theo quy định.

Bản cáo trạng số 173/CT-VKSPB, ngày 08-11-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b, c, i, p khoản 2 Điều 251 của BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, bị cáo xác định: Do bản thân là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2006, nên bị cáo thường xuyên đi mua ma túy về sử dụng và bán cho một số người nghiện ma túy khác kiếm lời. Từ tháng 4/2019 đến ngày 12/9/2019 bị cáo đã nhiều lần bán ma túy cho Triệu Văn T và Vũ Văn K, cụ thể: Tháng 4/2019 (Bị cáo không nhớ rõ ngày cụ thể), bị cáo bán cho Trìu 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; khoảng 13h ngày 09/8/2019 bán cho Vũ Văn K 02 gói với giá 800.000 đồng (quy đổi bằng tài sản do K và T phạm tội mà có), khoảng 12h ngày 12/8/2019 bị cáo tiếp tục bán cho K 01 gói với giá 100.000 đồng. Quá trình khám xét còn thu giữ của bị cáo vật chứng là nhiều túi nilon chứa các chất ma túy khác nhau, qua giám định là Heroine và Methamphetamine, có tổng khối lượng là: 5,453 gam. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: Mua bán trái phép chất ma túy, vì bị cáo đã có hành vi đi mua ma túy Heroine, Methamphetamine về sử dụng cho bản thân và bán trái phép nhiều lần cho 02 người khác nhau để thu lời bất chính.

Đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”

Áp dụng: Điểm b, c, i, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 09 - 10 năm tù.

- Phạt bổ sung bị cáo từ 05-06 triệu đồng sung quỹ Nhà nước.

- Áp dụng Điều 47 của BLHS, buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 200.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 của BLTTHS; tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng vụ án theo quy định.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST sung quỹ Nhà nước theo quy định pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn H không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì về hành vi phạm tội của mình và thừa nhận việc điều tra, truy tố là không oan, đúng người, đúng tội. Khi được nói lời sau cùng bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận vì đã phù hợp với chính lời khai của bị cáo, những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận:

Do bản thân là đối tượng nghiện chất ma túy nên bị cáo Nguyễn Văn H thường xuyên đi tìm mua ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân và bán lại cho đối tượng nghiện chất ma túy khác để kiếm lời. Cụ thể như sau: Tháng 4/2019 (Bị cáo không nhớ rõ ngày cụ thể), bị cáo bán cho Triệu Văn T 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng; khoảng 13h ngày 09/8/2019 bán cho Vũ Văn K 02 gói ma túy Heroine với giá thỏa thuận là 800.000 đồng (quy đổi bằng tài sản do K và T phạm tội mà có), khoảng 12h ngày 12/8/2019 bị cáo tiếp tục bán cho H 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Khám xét nhà bị cáo còn thu giữ nhiều túi nilon chứa ma túy, qua giám định là Heroine và Methamphetamine, có tổng khối lượng là: 5,453 gam.

Xét thấy, bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên buộc phải nhận thức và biết được hành vi mua chất ma túy về để sử dụng và bán lại chất ma túy trái phép cho người khác là trái pháp luật nhưng vì mục đích vụ lợi nên bị cáo vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Hành vi đó của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”, với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là: “Phạm tội 02 lần trở lên”; “Đối với 02 người trở lên”; “Heroine, Methamphetmine... có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” và “Có 02 chất ma túy trở lên”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c, i, p khoản 2 Điều 251 của BLHS. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo về Tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ và đúng quy định của Pháp luật.

Nội dung của Điều 251 của BLHS quy định:

1.Người nào … mua bán trái phép chất ma túy …, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

i) Heroine...Methamphetmine...có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

p) Có 02 chất ma túy trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng...

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mức độ của tội phạm là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo còn xâm hại trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước ta về các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự ở địa phương, đồng thời còn làm gia tăng tệ nạn nghiện chất ma tuý trên địa bàn. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo phải xử lý theo quy định pháp luật để nhằm tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của BLHS. Về nhân thân, thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, ngày 19/11/2019 đã bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ xử phạt 12 tháng tù tội: Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, điều này thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu và coi thường pháp luật. Vì vậy, dù có giảm nhẹ phần nào về hình phạt nhưng cần nên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian phù hợp để cho bị cáo có điều kiện cai nghiện ma túy cũng như cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

[4] Về số tiền bị cáo bán trái phép chất ma túy cho Triệu Văn T tháng 4/2019 và bán ma túy cho Vũ Văn K ngày 12/8/2019 thu được 200.000 đồng, xét thấy đây là khoản tiền thu lời bất chính cần truy thu sung quỹ nhà nước theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 của BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính, do đó cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS.

[6] Về xử lý vật chứng: Các bì niêm phong ký hiệu A2, A3, A4, bên trong có chứa ma túy được hoàn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu LK và 01 cân tiểu ly, xét thấy đây là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy theo quy định điểm a, c khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát trong lời luận tội đối với bị cáo như đề nghị về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt chính, xử lý vật chứng vụ án là phù hợp với quy định của Pháp luật cần chấp nhận.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị cáo bán cho K và T và số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ cụ thể tại khu vực bến xe Thái Nguyên và khu vực C, xã K, huyện P nên cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.

Đối với Vũ Văn K và Triệu Văn T là những người đã mua ma túy của bị cáo để sử dụng. Tuy nhiên, hành vi đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự nên Công an huyện Phú Bình đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp quy định pháp luật.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu một khoản án phí HSST sung quỹ Nhà nước theo quy định pháp luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng: Điểm b, c, i, p khoản 2 Điều 251; khoản 5 điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án theo bản án có hiệu lực pháp luật.

- Phạt bổ sung bị cáo 5.000.000đ (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

2. Áp dụng điểm b khoản 1 điều 47 của BLHS: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải truy nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) sung quỹ Nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 của BLTTHS, xử lý vật chứng như sau:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu A2 bên trong chứa 5,205 gam ma túy Heroine mẫu A2 và vỏ bao gói mẫu A2 hoàn lại sau giám định; 01 bì niêm phong ký hiệu A3 hoàn trả vỏ bao gói mẫu A3, 01 bì niêm phong ký hiệu A4 hoàn trả vỏ bao gói mẫu A4; 01 bì niêm phong ký hiệu LK và 01 cân tiểu ly màu đen có ký hiệu POCKET SCALE.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra của Công an huyện Phú Bình và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 172/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:172/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về