Bản án 17/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 276/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2021, đối với bị cáo:

Hà Trường S, sinh năm 1997 tại tỉnh S; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã An T, huyện C, tỉnh S; chỗ ở: Phường Đ, thành phố T, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 05/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Hà Văn D, sinh năm 1959 và bà Trần Thị B, sinh năm 1961; bị cáo có 03 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất là bị cáo.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/9/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Trần Văn H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 10 phút, ngày 10/9/2020, tại lề đường ĐT 744 trước tiệm bánh kem Phương Anh BK thuộc ấp A, xã A, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy phối hợp Công an xã P, Công an xã A tiến hành kiểm tra hành chính đối với Trần Văn H đang điều khiển xe mô tô biển số 64B1-633.13 chở Hà Trường S. Qua kiểm tra phát hiện trên ba ga xe mô tô này có 01 khẩu trang y tế màu xanh, bên trong có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. Lực lượng Công an đã tiến hành thu giữ:

- 01 gói nylon hàn kín hai đầu bên trong chứa tinh thể màu trắng:

- 01 khẩu trang y tế màu xanh:

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu trắng xanh biển số 64B1-633.13.

Tại cơ quan điều tra, S khai nhận là đối tượng sử dụng ma túy đá từ tháng 6/2020. Nguồn ma túy S có để sử dụng là do bạn bè ngoài xã hội cho hoặc góp tiền mua chung để sử dụng.

Khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 10/9/2020, S thuê xe ôm đi xuống phòng trọ của H (không rõ nhân thân lai lịch) là bạn bè quen biết ngoài xã hội ở khu vực ngã tư Bình Phước thuộc quận T, thành phố Hồ Chí Minh chơi và cùng nhau sử dụng ma túy. S nói sắp về quê sinh sống nên H nói sẽ cho S một ít ma túy để về sử dụng. S đồng ý.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi S và H đang ở trong phòng thì có một thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) là bạn của H cầm khẩu trang y tế màu xanh đi vào phòng. Người này để khẩu trang y tế màu xanh trên ba ga xe mô tô biển số 64B1-633.13 của H đang để trong phòng và nói cho H và S biết bên trong có chứa ma túy. Sau đó nam thanh niên đi đâu không rõ. Đến khoảng 21 giờ 20 phút cùng ngày, H đến phòng của H chơi và được Hn nhờ điều khiển xe mô tô biển số 64B1-633.13 chở S về thành phố T, tỉnh Bình Dương, H đồng ý. Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, H chở S về thành phố T, tỉnh Bình Dương nhưng S tiếp tục nhờ H chở đến nhà trọ tại xã A để lấy quần áo do S đã trả phòng. H đồng ý.

Đến 22 giờ 10 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô chở S đến trước tiệm bánh kem Phương Anh BK thuộc ấp A, xã A, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng công an yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

Theo kết luận giám định số 575/MT-PC09 ngày 15/9/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 2,4186 gam loại Methamphetamine.

Qua xác minh, xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 64B1-633.13 do Phan Thanh D (sinh năm 1998; hộ khẩu thường trú: Số L47, đường Đ, Phường 8, thành phố V, tỉnh V) đứng tên chủ sở hữu. Ngày 27/7/2020, D cho Phan Thanh H (sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú: L47, Đ, phường 8, thành phố V, tỉnh V) là anh ruột mượn để đi chơi. Sau đó H điều khiển xe đến nhà trọ không tên tại phường H, thành phố B, tỉnh Đ do bà Lục Thị L (sinh năm 1971; hộ khẩu thường trú: 153 đường Cách mạng tháng 8, phường Q, thành phố B, tỉnh Đ) quản lý, để gặp bạn thì bị mất xe. Ngày 25/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát đã chuyển xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 64B1- 633.13 cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đ để giải quyết theo quy định pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKSBC ngày 24/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Hà Trường S về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận tại phiên tòa, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Hà Trường S mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu và tiêu hủy 01 bì thư niêm phong bên trong có chứa 2,2571 gam Methamphetamine và 01 khẩu trang y tế màu xanh.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đúng như nội dung Cáo trạng truy tố, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo không có tranh luận gì với đại diện Viện Kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã đảm bảo thực hiện đúng và đầy đủ.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Hà Trường S đã khai nhận: Khoảng 22 giờ 10 phút ngày 10/9/2020, tại lề đường ĐT 744 trước tiệm bánh kem Phương Anh BK thuộc ấp A, xã A, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, bị cáo Hà Trường S đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,4186 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Xét bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Về nhận thức, bị cáo hoàn toàn biết ma tuý là loại độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm các hoạt động sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép. Nhưng vì thỏa mãn cơn nghiện của bản thân nên bị cáo vẫn cố tình phạm tội, bất chấp hậu quả. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Ma túy là một loại chất độc gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và cũng là mầm mống lan truyền căn bệnh của xã hội như HIV,... Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, bản Cáo trạng số 05/CT-VKSBC ngày 24/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Do đó, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục cho bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

 Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp và có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Đối với Trần Văn H: H không biết S cất giấu ma túy trên xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với H là có căn cứ. Qua kiểm tra xét nghiệm chất ma túy, xác định Trần Văn H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 25/9/2020, Công an thị xã Bến Cát đã có Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 226 xử phạt Trần Văn H số tiền 750.000 đồng là phù hợp.

[6] Đối với hành vi các của đối tượng tên S và H hiện không rõ nhân thân, lai lịch, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 Bì thư niêm phong chứa 2,2571 gam Methamphetamine là chất thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ; 01 khẩu trang y tế màu xanh là vật chứng thu giữ không có giá trị sử dụng. Nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 64B1-633.13: Qua điều tra xác định xe mô tô này thuộc quyền sở hữu của Phan Thanh D. Ngày 27/7/2020, anh D cho mượn xe thì bị mất tại địa bàn phường Q, thành phố B, tỉnh Đ. Ngày 25/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát đã chuyển xe mô tô nêu trên cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, tỉnh Đ để giải quyết theo quy định pháp luật là phù hợp.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106; Điều 136, Điều 260, khoản 1 Điều 268, Điều 269 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Hà Trường S phạm tội:

“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Hà Trường S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 10/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy:

- 01 (một) Bì thư niêm phong ghi số vụ: 575/PC09 chứa 2,2571 gam Methamphetamine:

- 01 (một) Khẩu trang y tế màu xanh.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Hà Trường S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về