Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 23 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 629/2020/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Lê Thanh T, sinh năm: 1990;

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: anh Nguyễn Văn N, sinh năm: 1982;

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Chị T có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt; anh N vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 11 tháng 11 năm 2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thanh T trình bày:

Chị Lê Thanh T và anh Nguyễn Văn N tự nguyện kết hôn vào năm 2013. Anh chị tự tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B. Sau khi cưới, thời gian đầu anh chị sống hạnh phúc đến năm 2018 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh N ham mê cờ bạc, ăn chơi, không chăm lo cuộc sống chung của gia đình. Khi xảy ra mâu thuẫn, chị T nhiều lần khuyên nhủ, tìm cách tháo gỡ mâu thuẫn. Gia đình hai bên biết vợ chồng chị bất hòa cũng đã tổ chức hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Chị T, anh N ly thân từ tháng 01/2020 đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng chị còn sống chung nhà nhưng tình cảm không còn, cả hai không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai người nấy sống, tình hình sức khỏe, cuộc sống, sinh hoạt của nhau không ai biết đến ai. Nay chị T xác định không còn tình cảm với anh N nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.

Về nuôi con chung: chị T, anh N có 01 con chung là Nguyễn Lê Phát D, sinh ngày 28/02/2015. Hiện nay, cháu D đang sống với chị T. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi cháu D, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản chung và nợ chung: chị T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho chị sau khi ly hôn.

Anh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ và hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay nhưng vẫn vắng mặt nên không có lời trình bày của anh N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi Nên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 11/11/2020, chị Lê Thanh T khởi kiện tại Toà án nhân dân huyện Châu Thành yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn N. Căn cứ theo yêu cầu khởi kiện, vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp về việc “Ly hôn” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình. Vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Châu Thành theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị Lê Thanh T có yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T, anh N là phù hợp với quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Đối với yêu cầu ly hôn của chị T:

Chị T, anh N tự nguyện kết hôn vào năm 2013 và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tiên Thủy, anh chị được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18/3/2013. Chứng cứ này là có cơ sở nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi cưới, thời gian đầu vợ chồng chị sống hạnh phúc nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh N ham mê cờ bạc, ăn chơi, không chăm lo cuộc sống chung của gia đình. Khi xảy ra mâu thuẫn, chị T nhiều lần tìm cách tháo gỡ mâu thuẫn, gia đình hai bên đã khuyên nhủ hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả. Từ tháng 01 năm 2020, chị T, anh N ly thân đến nay. Trong thời gian ly thân, vợ chồng chị còn sống chung nhà nhưng tình cảm không còn, cả hai không còn quan tâm đến nhau, mạnh ai người nấy sống, tình hình sức khỏe, cuộc sống, sinh hoạt của nhau không ai biết đến ai. Chị T xác định không còn tình cảm với anh N nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Đối với anh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này có cơ sở khẳng định, anh N không còn tha thiết và không mong muốn duy trì tiếp tục mối quan hệ hôn nhân với chị T nên có căn cứ xác định tình trạng của vợ chồng chị T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu của chị T là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về nuôi con chung: anh N, chị T có 01 con chung là Nguyễn Lê Phát D, sinh ngày 28/02/2015. Hiện nay, cháu D đang sống với chị T. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi cháu D. Đối với yêu cầu này của chị T, anh N vắng mặt không có ý kiến nên Tòa án căn cứ trên những chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án để xem xét. Theo chị T, từ trước đến nay chị là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu D và lo cho cháu chu đáo, đảm bảo sự phát triển bình thường của cháu nên cần giao cháu D cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Tuy nhiên, vì lợi ích của con chung sau này, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con.

[4] Về cấp dưỡng: chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận. Vì lợi ích của con chung sau này, khi cần thiết chị T có quyền yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về chia tài sản chung và nợ chung: chị T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho chị sau khi ly hôn.

[7] Về án phí: chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng là phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thanh T xin ly hôn đối với anh Nguyễn Văn N;

* Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Lê Thanh T với anh Nguyễn Văn N.

* Về nuôi con chung: giao con chung là Nguyễn Lê Phát D, sinh ngày 28/02/2015 cho chị Lê Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng.

con.

Ghi nhận chị Lê Thanh T không yêu cầu anh Nguyễn Văn N cấp dưỡng nuôi Anh Nguyễn Văn N được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai có quyền cản trở. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

* Về chia tài sản chung và nợ chung: chị Lê Thanh T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Ghi nhận chị Lê Thanh T không yêu cầu anh Nguyễn Văn N cấp dưỡng cho chị sau khi ly hôn.

2. Về án phí: chị Lê Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004710 ngày 25/11/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 23/02/2021 về ly hôn

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về