Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

 BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai vụ án thụ lý số 31/2021/TLST - HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2021 về “ Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Lệ T, sinh năm 1997; ĐKHKTT : xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; hiện trú tại: Khối 9, thị trấn B, huyện K, tỉnh Ninh Bình - Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1988; ĐKHKTT và trú tại: xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình - Vắng mặt lần thứ hai không có lý do

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Trần Thị Lệ T trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn B năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại xóm 6, xã K, ban đầu cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn Theo chị T, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, anh H chơi bời, cờ bạc, không tu chí làm ăn., không quan tâm đến cuộc sống gia đình. Mặc dù chị đã nhiều lần khuyên giải nhưng không có kết quả. Do vậy chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại khối 9, thị trấn B để sinh sống từ tháng 8/2019 đến nay không ai quan tâm đến ai. Trong thời gian sống ly thân vợ chồng chị không có trao đổi gì. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay về chung sống, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh H để chị ổn định cuộc sống.

Về con chung và tài sản chung: Chị T xác định vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết Bị đơn Nguyễn Văn H trong các biên bản sự việc ngày 16/3/2021 và 29/3/2021 thể hiện:

]Anh xác nhận điều kiện, thời gian kết hôn như chị T đã trình bày. Sau khi kết hôn, anh chị chỉ chung sống tại nhà bố mẹ đẻ của anh Hà tại xóm 6, xã K. Chị T nhiều lần tự ý bỏ về nhà bố mẹ đẻ để sinh sống, anh phải đến khuyên giải thì mới quay về, đến năm 2019 thì vợ chồng anh chính thức sống ly thân. Nay chị T yêu cầu ly hôn thì anh cũng nhất trí vì vợ chồng đã ly thân từ năm 2019, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Anh không tham gia vào quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, anh đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt anh.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về tố tụng: nguyên đơn và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của BLTTDS. Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của BLTTDS Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về hướng giải quyết vụ kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật HNGĐ; Điều 147, 228 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14: Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Lệ T và anh Nguyễn Văn H; chị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Trần Thị Lệ T khởi kiện yêu cầu giải quyết việc ly hôn với anh Nguyễn Văn H, cư trú tại xóm 6, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; căn cứ quy định tại điều 28 và 39 BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện K. Nguyên đơn, bị đơn đều được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần 2 không có lý do, căn cứ khoản 3 Điều 228 BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Lệ T và anh Nguyễn Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 2014 tại UBND thị trấn B, là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật HNGĐ; sau khi kết hôn vợ chồng chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn.

Theo chị T, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh H chơi bời, cờ bạc không tu chí làm ăn, không quan tâm đến cuộc sống gia đình. Mặc dù vợ chồng đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả. Về phía anh H, anh không nêu rõ nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là gì, cũng không bác bỏ ý kiến của chị T, anh chỉ xác định chị T nhiều lần tự bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, đến năm 2019 thì vợ chồng anh chính thức sống ly thân. Cả chị T và anh H đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể quay về chung sống với nhau được nữa và yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn cho vợ chồng anh chị.

Xác minh tình trạng hôn nhân của anh H và chị T tại UBND xã K là nơi anh chị cư trú; thì chính quyền địa phương xác nhận anh H và chị T có xảy ra mâu thuẫn nhưng không rõ nguyên nhân là gì, chỉ biết hiện anh chị không còn chung sống với nhau nữa.

Như vậy có đủ căn cứ xác định giữa chị T và anh H trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn. Mặc dù vợ chồng và gia đình hai bên đã hòa giải nhiều lần nhưng mâu thuẫn không khắc phục được, dẫn đến vợ chồng đã có thời gian dài sống ly thân, không còn quan tâm đến cuộc sống chung nữa; cả chị T và anh H khẳng định định không thể quay về chung sống với nhau được nữa.

Từ những căn cứ đó đã có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của anh H, chị T hiện nay đã trầm trọng, mâu thuẫn không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì cuộc sống chung; căn cứ quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình, yêu cầu của anh H giải quyết ly hôn chị T là có căn cứ được chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung và tài sản chung: Chị Trần Thị Lệ T và anh Nguyễn Văn H đều xác định không có con chung, không có tài sản chung nên HĐXX không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ quy định tại điều 147 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 buộc chị Thu phải nộp toàn bộ án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình; Điều 147, 228 Bộ luật tố tụng dân sựNghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Xử ly hôn giữa chi Trần Thị Lệ T và anh Nguyễn Văn H.

2/ Về án phí: chị Trần Thị Lệ T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA2530 ngày 23/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 14/05/2021 về ly hôn

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về