Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 10/03/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

 BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 354/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2020, về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 02/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20/01/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Viết M, sinh năm: 1969 (Có mặt) Địa chỉ: Ấp 3, xã Lộc An, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

* Bị đơn: Bà Trần Hồng H, sinh năm: 1970 (Vắng mặt không có lý do) Nơi cư trú cuối cùng: Ấp 3, xã Lộc An, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 8 năm 2020, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Viết M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Viết M tự nguyện chung sống với bà Trần Hồng H từ giữa năm 1987 nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi về chung sống với nhau vợ chồng sống tự lập tại ấp 3, xã Lộc An, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước. Vợ chồng sống đến năm 2004 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Bà Trần Hồng H đã bỏ địa phương đi từ năm 2004 cho đến nay không có tung tích gì của bà Hà. Nay ông Nguyễn Viết M yêu cầu được ly hôn với bà Trần Hồng H.

Về con: Ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H có 03 người con chung tên là Nguyễn Thị Ngọc P, sinh năm 1988, Nguyễn Viết P1, sinh năm 1993 và Nguyễn Viết Tính, sinh năm 1996, Ngoài ra, vợ chồng không có nuôi con nuôi. Khi ly hôn các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết về người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Ông Nguyễn Viết M khẳng định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết trong vụ án.

Về nợ chung: Ông Nguyễn Viết M khẳng định ông và bà Trần Hồng H không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết trong vụ án.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Trần Hồng H vắng mặt nên không có lời trình bày. Tại biên bản xác minh 03/11/2020 xác định: Hiện nay bà Trần Hồng H không có mặt tại địa phương do bà Hà đi khỏi địa phương không khai báo, nên hiện nay bà Hà đang cư trú tại đâu địa phương không nắm rõ. Tòa án đã niêm yết các các văn bản tố tụng hợp lệ cho bà Trần Hồng H nhưng bà Trần Hồng H vẫn vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng quy định pháp luật. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân tuân thủ quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành pháp luật. Bị đơn không chấp hành pháp luật.

Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Viết M.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H.

Về con: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết trong vụ án nên không đặt ra.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết trong vụ án nên không đặt ra.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn ông Nguyễn Viết M nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh giải quyết ly hôn với bà Trần Hồng H, yêu cầu của ông Nguyễn Viết M được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bà Trần Hồng H có nơi cư trú cuối cùng tại ấp 3, xã Lộc An, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn không chấp hành pháp luật.

Bị đơn bà Trần Hồng H mặc dù đã được Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh thông báo, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Tuy nhiên, bà Trần Hồng H vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến hoặc đơn phản tố của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Trần Hồng H.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Theo nội dung đơn xin xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Lộc An, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước cùng lời trình bày của ông Nguyễn Viết M xác định: Ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H tự nguyện chung sống với nhau từ giữa năm 1987, có tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Quá trình sống chung, giữa ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H có phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau nên bà Trần Hồng H đã đi khỏi địa phương từ năm 2004 cho đến nay không rõ địa chỉ.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn và nhân gia đình thì: “Nam nữ có điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng...”. Tại khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “ Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này....”.

Ông Nguyễn Viết M đã yêu cầu Tòa án tuyên bố bà Trần Hồng H mất tích. Theo quyết định giải quyết việc dân sự số: 01/2020/QĐST-DS ngày 20/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh đã tuyên bố bà Trần Hồng H mất tích, do đó ông Nguyễn Viết M yêu cầu ly hôn với bà Trần Hồng H là có căn cứ và được chấp nhận.

Như vậy, ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H mặc dù có đủ điều kiện kết hôn nhưng không tiến hành đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Do đó, nay ông Nguyễn Viết M yêu cầu được ly hôn với bà Trần Hồng H thì Tòa án cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H.

[2.2] Về con: Ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H có 03 người con chung tên là Nguyễn Thị Ngọc P, sinh năm 1988, Nguyễn Viết P1, sinh năm 1993 và Nguyễn Viết Tính, sinh năm 1996, Ngoài ra, vợ chồng không có nuôi con nuôi. Khi ly hôn các con đã trưởng thành nên ông M không yêu cầu Tòa án giải quyết về người trực tiếp nuôi con. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung: Ông Nguyễn Viết M khẳng định không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết trong vụ án.

[2.4] Về nợ chung: Ông Nguyễn Viết M khẳng định ông và bà Trần Hồng H không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết trong vụ án.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy, ông Nguyễn Viết M phải chịu số tiền án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng.

[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 39 Bộ luật dân sự;

- Điều 9, Điều 14, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 57 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Viết M

1/ Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Nguyễn Viết M và bà Trần Hồng H.

2/ Về con chung: Các con đã trưởng thành và ông Nguyễn Viết Manh không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết trong vụ án.

3/ Về tài sản chung: Ông Nguyễn Viết M khẳng định không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết trong vụ án.

4/ Về nợ chung: Ông Nguyễn Viết M khẳng định ông và bà Trần Hồng H không có nợ chung và không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết trong vụ án.

5/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Viết M phải chịu 300.000 đồng án phí, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số: 0001337 ngày 29/10/2020.

6/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 17/2021/HNGĐ-ST ngày 10/03/2021 về ly hôn

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về