Bản án 17/2020/HSST ngày 24/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 17/2020/HSST NGÀY 24/04/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2020/HSST ngày 26 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 18/10/1993; trú tại: Khu hành chính 12, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; văn hoá: 10/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh T và bà Bùi Thị D; có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn) và có 01 con (sinh năm 2013); tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 17/6/2009 bị Công an thành phố Vĩnh Yên xử phạt hành chính hình thức Cảnh cáo về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”. Ngày 08/7/2013 bị Công an phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” số tiền 750.000, ngày 15/10/2013 Dương đã nộp phạt. Ngày 08/10/2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cở sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng, D đã chấp hành xong năm 2016.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/01/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

*Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1984; trú tại: Thôn Đồi Cao, xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17h00’ ngày 04/01/2020, Nguyễn Ngọc D điều khiển xe máy chở bạn là Trần Việt A ở cùng phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên đi vào khu vực xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo để phát tờ rơi quảng cáo Gas cho cửa hàng của gia đình D. Khi đến tiệm may của chị Nguyễn Thị Nh ở thôn Đồi Cao, xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo, D dừng xe ở ven đường để Việt A ở ngoài trông xe còn D đi bộ vào bên trong quán để phát tờ rơi. Khi đi vào cửa quán, D gọi “Chị ơi” nhưng không thấy ai trả lời, đồng thời quan sát xung quanh quán nhưng không thấy có người. Lúc này D nhìn thấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M20 màu xanh của chị Nh để trên mặt bàn máy khâu bên tay trái, cạnh vị trí cửa ra vào nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại trên. D dùng tay phải cầm lấy chiếc điện thoại và kẹp vào tập tờ rơi quảng cáo gas D đang cầm bên tay trái để không ai nhìn thấy. Sau khi lấy được điện thoại, D đi bộ ra ngoài đường được khoảng 4-5m thì bị chị Phạm Thị Tú A ở thôn Nga Hoàng, xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và hô hào người dân giữ D lại, sau đó báo Công an huyện Tam Đảo đến lập biên bản phạm tội quả tang. Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động Samsung M20.

Cùng ngày, chị Nguyễn Thị Nh có đơn trình báo đề nghị Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo điều tra, xử lý theo quy định.

Ngày 05/01/2020, cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo ra Yêu cầu định giá tài sản số 62 đề nghị Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện Tam Đảo tiến hành định giá tài sản đối với 01 điện thoại Samsung M20 mà Dương đã trộm cắp của chị Nguyễn Thị Nh. Tại Kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐG ngày 08/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tam Đảo kết luận: Giá trị của tài sản là 3.500.000đ (ba triệu năm trăm nghìn đồng chẵn).

Đối với anh Trần Việt A là người đi cùng D vào xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo để phát tờ rơi quảng cáo gas. Do Anh đứng ngoài trông xe và chỉ biết D đi vào nhà chị Nh để phát tờ rơi chứ không biết việc Dương thực hiện hành vi phạm tội, do vậy Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo không xử lý.

Đối với 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung M20 Cơ quan điều tra đã tạm giữ, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị Nh nên ngày 18/01/2020 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nhung. Sau khi nhận lại tài sản chị Nhung không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho D.

Tại Cáo trạng số 17/CT-VKSTĐ ngày 25/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo đã truy tố Nguyễn Ngọc D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà đã phân tích hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc D phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Ngọc D từ 09 tháng đến 01 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; các Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự: Đề nghị xác nhận Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Nh 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung M20. Sau khi nhận lại tài sản chị Nhung không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự;

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Ngọc D đã thành khẩn khai nhận và rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình, khi nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng sự khoan hồng của pháp luật, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thể hiện như sau: Khoảng 17h00’ ngày 04/01/2020, tại thôn Đồi Cao, xã Hợp Châu, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Ngọc D đã có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động Samsung M20 của chị Nguyễn Thị Nhung. Trị giá chiếc điện thoại di động Samsung M20 là 3.500.000đ.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với các chứng cứ khác đã được thu thập và phù hợp với Cáo trạng đã được Đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa. Do vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo D phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt của bị cáo được qui định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng …., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng có tiền sự về các hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, “Sử dụng trái phép chất ma túy” nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện trở thành công dân có ích mà còn tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung;

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là: Người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Do vậy cần xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự : “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có thu nhập nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

[4] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Nh 01 điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung M20. Sau khi nhận lại tài sản trên chị Nhung không có yêu cầu đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết;

[5] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[6] Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được Điều tra viên, Kiểm sát điều tra, thu thập theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng mọi hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự trong việc điều tra, truy tố đối với bị cáo;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc Dương phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Nguyễn Ngọc D 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 04/01/2020;

3.Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án số 326/2016/PL-UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/HSST ngày 24/04/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về