Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC - TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/07/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 46/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2020 về “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25d/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị H, sinh năm 1983, Hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre, Nơi ở hiện nay: Ấp *, xã L, huyện Cần Đước, tỉnh L1, có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 17/7/2020.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn H1, sinh năm 1974, địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện M, tỉnh Bến Tre, vắng mặt không lý do lần 2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[ Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/02/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án;

nguyên đơn chị Đặng Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Trên cơ sở tự tìm hiểu quen biết nhau trước, chị và anh Lê Văn H1 tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện M1 (nay là huyện M), vào ngày 09/02/2005. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì bắt đầu mất hạnh phúc. Nguyên nhân mất hạnh phúc là anh chị có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cự cãi nhau. Anh chị chính thức sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh chị không có gặp gỡ nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh H1 vì không còn tình cảm.

Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 01 con chung tên Lê Thị Ngọc H2, sinh ngày 02/11/2001, đã trưởng thành nên không đề cập.

Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống, anh chị không có tài sản chung và cũng không có nợ ai.

Bị đơn anh Lê Văn H2 vắng mặt trong suốt quá trình Tòa giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến trình bày của anh H2.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc nhận định:

[1] Đối với nguyên đơn chị Đặng Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt đề ngày 17/7/2020 nên căn cứ vào Khoản 1 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H là phù hợp. Đối với bị đơn anh Lê Văn H1 đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh H1 là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân của chị Đặng Thị H và anh Lê Văn H1 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 năm thì bắt đầu mất hạnh phúc. Theo chị H trình bày nguyên nhân mất hạnh phúc là do anh chị có nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cự cãi nhau. Anh chị chính thức sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay. Anh H1 vắng mặt trong suốt quá trình Tòa giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nên không có lời trình bày. Tuy nhiên, sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã thông báo cho anh H1 đến Tòa để tham gia hòa giải nhằm tạo điều kiện cho anh chị hàn gắn nhưng anh H1 vẫn vắng mặt không lý do chứng minh anh không có thiện chí hàn gắn đoàn tụ. Mặt khác, trong thời gian sống ly thân anh chị sống bỏ mặc, không quan tâm nhau, không tạo điều kiện gặp gỡ nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Và trong suốt quá trình giải quyết vụ án chị H cương quyết được ly hôn với anh H1 vì không còn tình cảm. Điều đó chứng tỏ rằng cuộc sống hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ.

[3] Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 01 con chung tên Lê Thị Ngọc H2, sinh ngày 02/11/2001. Hiện cháu H2 đã trưởng thành nên không đề cập.

[4] Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống, anh chị không có tài sản chung và cũng không có nợ ai nên không đề cập.

[5] Về án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 17 Luật phí và lệ phí; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đặng Thị H.

Chị Đặng Thị H được ly hôn với anh Lê Văn H1.

2. Về nuôi con chung: Trong thời gian chung sống, anh chị có 01 con chung tên Lê Thị Ngọc H2, sinh ngày 02/11/2001. Hiện cháu H2 đã trưởng thành nên không đề cập.

3.Về chia tài sản: Trong thời gian chung sống, anh chị không có tài sản chung và cũng không có nợ ai nên không đề cập.

4. Về án phí: Chị Đặng Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu số ******* ngày **/**/**** của Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 30/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về