Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 24/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ YÊU CẦU CẤP DƯỠNG NUÔI CON

Ngày 24 tháng 04 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 10/2020/TLST-HNGĐ, ngày 13 tháng 01 năm 2020, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1988;

Địa chỉ: ấp A, xã An T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Anh Lữ Chí T, sinh năm 1988;

Địa chỉ: ấp A, xã An T, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải đoàn tụ không thành và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc H trình bày:

Chị Nguyễn Thị Ngọc H và anh Lữ Chí T tự nguyện kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre.

Trong thời gian sống chung, chị H và anh T có hai con chung tên Lữ Thị Yến N, sinh ngày 16/3/2009, hiện đang sống với chị H. Con thứ hai là Lữ Thị Diễm M, sinh ngày 21/02/2013 đã chết.

Về tài sản chung: Không có.

Nợ chung: Không có.

Do anh T hay cờ bạc, không quan tâm đến gia đình, vợ con, chị H nhiều lần khuyên bảo nhưng anh không thay đổi nên vợ chồng ly thân từ năm 2019 đến nay không hàn gắn được.

Nay chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T.

Về con chung, chị H yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: không có.

Theo bản tự khai, biên bản hòa giải không thành và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn Lữ Chí T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, con chung, mâu thuẫn vợ chồng, tài sản chung và nợ chung như chị H khai là đúng.

Nay chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T thì anh T đồng ý.

Về con chung: Anh T đồng ý để chị H trực tiếp nuôi con nhưng anh không đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo yêu cầu của chị H mặc dù anh có ông việc ổn định, thu nhập bình quân khoảng 8.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phát biểu quan điểm về vụ án tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam nhận định:

Về tố tụng:

Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Các đương sự chấp hành tốt các quy định của pháp luật.

Về nội dung giải quyết: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 28, 35, 39, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Ngọc H và anh Lữ Chí T.

Về con chung: Giao cho chị H được quyền trực tiếp nuôi con, buộc anh T cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị Ngọc H và nội dung tranh chấp cần phải giải quyết, Tòa án xác định đây là vụ án Hôn nhân và Gia đình về việc: "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con" được quy định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.

Theo xác nhận đề ngày 12 tháng 12 năm 2019 của Công an xã A, huyện M thì bị đơn Lữ Chí T hiện đang đăng ký thường trú và cư trú tại ấp A, xã A, huyện M, tỉnh Bến Tre nên căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo trình tự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam.

[2] Về nội dung giải quyết:

Xem xét, giải quyết yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc H, Hội đồng xét xử xét thấy :

Chị Nguyễn Thị Ngọc H và anh Lữ Chí T tự nguyện kết hôn vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An T, huyện M, tỉnh Bến Tre nên hôn nhân của chị H và anh T là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Qua hòa giải và tại phiên tòa sơ thẩm, chị H và anh T thuận tình ly hôn nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng nên không xem xét.

Về con chung: Trong thời gian sống chung, chị H và anh T có hai con chung tên Lữ Thị Yến N, sinh ngày 16/3/2009, hiện đang sống với chị H. Con thứ hai là Lữ Thị Diễm M, sinh ngày 21/02/2013 đã chết. Tại phiên tòa sơ thẩm, chị H vẫn yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu N và yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng. Anh T đồng ý để chị H trực tiếp nuôi con nhưng không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét thấy việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con được quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình, bản thân anh T có công việc và thu nhập ổn định 8.000.000 đồng/tháng nên buộc anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập đến.

[3] Về án phí:

Chị Nguyễn Thị Ngọc H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 24 và Điểm a Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh Lữ Chí T phải chịu án phí về việc cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng.

[4] Xét thấy quan điểm và đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỏ Cày Nam tại phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 24 và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số : 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc H.

Chị Nguyễn Thị Ngọc H được ly hôn với anh Lữ Chí T. Các đương sự không có yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị Ngọc H được quyền trực tiếp nuôi con tên Lữ Thị Yến N, sinh ngày 16/3/2009, hiện cháu Yến N đang sống chung với chị H. Buộc anh Lữ Chí T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000(Một triệu) đồng. Thời gian cấp dưỡng từ tháng 4 năm 2020 cho đến khi cháu Yến N tròn mười tám tuổi.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không đề cập đến.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc H phải nộp án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự không có giá ngạch là 300.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm ngàn) đồng mà chị Hân đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008197, ngày 13/01/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam là đủ.

Anh Lữ Chí T phải nộp án phí về việc cấp dưỡng nuôi con là 300.000(Ba trăm nghìn) đồng sung vào ngân sách Nhà nước.

Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự đều có mặt có quyền làm đơn kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 24/04/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về