Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH N

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 744/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về “ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2020/QĐST- HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1979.

Địa chỉ: 45/18 đường Tr, phường Y, thành phố P, tỉnh N (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Tài B, sinh năm: 1980.

Địa chỉ: thôn T, xã Th, thành phố P, tỉnh N (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn- Bà Nguyễn Thị T- trình bày:

Bà Nguyễn Thị T và ông Tài B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cươi hỏi và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 09 ngày 12 tháng 4 năm 2004 tại Uỷ ban nhân dân xã Th. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình chồng ở xã Th đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do ông B có quan hệ yêu đương người phụ nữ khác, không quan tâm chăm sóc vợ con. Từ năm 2017 đến nay bà và con về sống tại 45/18 đường Tr, vợ chồng ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một con chung tên là Tài N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2004, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và không yêu cầu ông B cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn – ông Tài B vắng mặt.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại nhà ông Tài B. Mẹ ruột ông là Trương Thị Th trình bày bà T và ông B không chung sống từ năm 2017 đến nay, không ai quan tâm đến ai, ông B đã có người khác; từ khi ly thân cháu N sống cùng với bà T.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Nguyễn Thị T và ông Tài B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 09 ngày 12 tháng 4 năm 2004 tại Uỷ ban nhân dân xã Th, thành phố P. Đây là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Riêng ông B vắng mặt, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ các lý do chính đáng khác. Bà Nguyễn Thị T trình bày bà và ông Tài B đã ly thân từ năm 2017 đến nay, không ai quan tâm đến ai, mẹ ruột ông B đã xác nhận điều này. Ông B dù đã được tống đạt hợp lệ nhưng vẫn không tham gia tố tụng, không thể hiện sự nỗ lực hàn gắn hạnh phúc gia đình. Vì vậy căn cứ vào điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xét thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[3] Về quan hệ con chung: Tại phiên tòa sơ thẩm, bà T giữ nguyên yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung của vợ chồng bà tên là Tài N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2004. Do từ năm 2017 đến nay cháu An sống cùng với mẹ, cuộc sống đã ổn định, bà nội của cháu (bà Trương Thị Th) cũng thừa nhận cháu được mẹ chăm sóc nuôi dưỡng tốt, bản thân cháu T cũng mong muốn được sống cùng với mẹ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T. Bà T tiếp tục có quyền và nghĩa vụ trực tiếp nuôi dưỡng Tài N. Ông B không có nghiã vụ cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Do bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, “trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải nộp án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu”, do đó bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, khoản 4 điều 147, điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 56, điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn ông Tài B.

Về quan hệ con chung:

Bà Nguyễn Thị T có quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Tài N, sinh ngày 06 tháng 4 năm 2004. Ông Tài B không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do bà Nguyễn Thị T không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu ông Tài B lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo Biên lai thu tiền số 00205x ngày 04 tháng 12 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố P. Bà Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí.

“Trường hợp bản án, quyết định, được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về