Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 17/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 21/7/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 142/2019/TLST-HNGĐ ngày 13/5/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2020/QĐST-HN ngày 10/6/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2020/QĐST-HN ngày 30/6/2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Bích N, sinh năm 1985, nơi cư trú: Tổ 8, ấp H, xã N, huyện B, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1988, nơi cư trú: Tổ 8, ấp H, xã N, huyện B, tỉnh An Giang.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa (nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Thị Bích N trình bày:

Nguyên đơn và bị đơn ông Nguyễn Văn Ch do gia đình hai bên mai mối, tổ chức lễ cưới vào năm 2009, đăng ký kết hôn ngày 11/8/2009 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện B. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2011 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên đơn cùng con về gia đình cha mẹ ruột sinh sống. Trong thời gian này, bị đơn ít đến thăm nom, chăm sóc con chung. Do tình cảm vợ chồng không còn, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn bị đơn.

Về con chung, trong thời gian chung sống, nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 07/7/2005. Nguyên đơn yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tống đạt hợp lệ; niêm yết các văn bản tố tụng như: Thông báo thụ lý, Thông báo về mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định nhưng bị đơn vắng mặt, không đến Tòa án nên Tòa án không tiến hành được việc mở phiên họp kiểm tra tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định.

Quá trình tố tụng, Tòa án đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn tại Ban ấp H, xã N, huyện B.

Kết quả xác minh thể hiện: Đương sự Nguyễn Văn C, sinh năm 1988 đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 8, ấp H, xã N, huyện B, tỉnh An Giang. Hiện nay đương sự Nguyễn Văn C đang sinh sống tại địa phương, còn bà Lê Thị Bích N thường xuyên đi làm ăn xa, thỉnh thoảng có về địa phương. Về mâu thuẫn giữa bà N và ông C địa phương không nắm do từ trước đến nay địa phương không có xử lý tin báo gì từ phía vợ chồng ông C, bà N cũng như những người xung quanh.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án thực hiện đúng, cơ bản thực hiện đầy đủ đúng các quy định. Tuy nhiên, còn để án quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo Điều 203 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 (BLTTDS).

Việc Tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của BLTTDS về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Người tham gia tố tụng, nguyên đơn cơ bản đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS. Tuy nhiên, bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo Điều 72 BLTTDS.

Về giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân gần 09 năm (từ năm 2011 đến nay), nhưng cả hai không tạo cho nhau điều kiện để đoàn tụ gia đình, không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng là trầm trọng. Vì vậy, cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần xem xét giải quyết cho ly hôn.

Về con chung, nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 07/7/2005. Nguyên đơn yêu cầu được quyền nuôi con, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng, đây là yêu cầu phù hợp pháp luật và cũng là nguyện vọng của cháu N mong muốn được sống chung với mẹ. Vì vậy, đề nghị giao cháu N cho nguyên đơn tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập xem xét.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn; giao con chung cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng, bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về tố tụng:

[1] Nguyên đơn bà Lê Thị Bích N khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn ông Nguyễn Văn C; bị đơn có địa chỉ cư trú tại tổ 8, ấp H, xã N, huyện B. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS.

[2] Nguyên đơn có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 BLTTDS.

Về nội dung:

[3] Nguyên đơn và bị đơn kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 11/8/2009 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện B nên được xem là hôn nhân hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:

Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.

Xét, nguyên đơn và bị đơn không còn sống chung từ năm 2011 đến nay và bị đơn đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, trong đó có thông báo về các phiên hòa giải nhưng bị đơn vẫn không đến Tòa án tham dự, cho thấy bị đơn không có thiện chí trong việc hoà giải đoàn tụ, vun bồi hạnh phúc gia đình. Do đó, việc hàn gắn mâu thuẫn cùng nhau xây dựng, chăm lo cuộc sống gia đình là không thể thực hiện được. Nguyên đơn khởi kiện ly hôn với bị đơn là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 như quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[4] Về con chung: Nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 07/7/2005, hiện tại nguyên đơn đang trực tiếp nuôi dưỡng. Tại biên bản ghi nhận ý kiến con chung, cháu N có nguyện vọng được sống chung với mẹ nên việc nguyên đơn yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung là phù hợp, xét chấp nhận. Bị đơn không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung, nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án.

[6] Về án phí: Nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo luật định.

Bị đơn không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Bích N;

[1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Bích N được ly hôn ông Nguyễn Văn C.

[2] Về con chung: Bà Lê Thị Bích N được tiếp tục nuôi dạy con chung Nguyễn Thị Bảo N, sinh ngày 07/7/2005. Ông Nguyễn Văn C không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Lê Thị Bích N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Văn C trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[3] Về án phí: Bà Lê Thị Bích N phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm đã nộp theo biên lai số TU/2016/0014720 ngày 13/5/2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tịnh Biên. Bà N đã nộp đủ án phí.

Ông Nguyễn Văn C không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

[4] Giấy chứng nhận kết hôn số 77, quyển số 01/2009 ngày 11/8/2009 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện B, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

[5] Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết, nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

266
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:17/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về