Bản án 17/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 17/2020/DS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 20 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 184/2020/TLST-DS ngày 03 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐST- DS ngày 17 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV. Trụ sở chính: Số X, đường A, phường Cửa Nam, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội; đại diện theo pháp luật: Ông S, chức vụ: Tổng giám đốc; đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Tấn D, chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV chi nhánh Bạc Liêu; ông Nguyễn Tấn D ủy quyền lại cho: Bà Lâm Thị N, chức vụ: Cán bộ Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV chi nhánh Bạc Liêu.

2. Bị đơn: Bà Trương Thị T, sinh năm 1972; nơi cư trú: Số 99, khóm X, phường Y, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.

(Bà N có đơn xin vắng mặt, bà T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng tại Tòa án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV trình bày:

Ngày 25/9/2015, bà Trương Thị T có ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) chi nhánh Bạc Liêu hợp đồng tín dụng số 23315TC-BL/HĐTD-LV, để vay số tiền 91.000.000 đồng, lãi suất vay là 12%/ năm trong 03 tháng đầu, từ tháng thứ 04 trở đi lãi suất cho vay = Lãi suất tiết kiệm thường kỳ hạn 13 tháng, trả lãi cuối kỳ + biên độ lãi suất cho vay tối thiểu áp dụng đối với khách hàng (4,75%/năm), thời hạn vay 48 tháng, nợ gốc và lãi trả cố định ngày 10 hàng tháng, thời điểm trả hết nợ vào ngày 25/9/2019; bà T vay tiền không tài sản đảm bảo. Tính đến ngày 20/8/2020, đối với hợp đồng tín dụng 23315TC-BL/HĐTD-LV bà T còn nợ Ngân hàng số tiền tổng cộng 9.033.886 đồng, trong đó vốn là 6.094.949 đồng và lãi là 2.938.937 đồng (lãi trong hạn 808.750 đồng, lãi quá hạn 2.130.187 đồng).

Ngày 14/8/2018 bà Trương Thị T ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV chi nhánh Bạc Liêu hợp đồng tín dụng số HDTD92020181303, để vay số tiền 50.000.000 đồng, lãi suất vay là 13,25%/ năm trong 03 tháng đầu, từ tháng thứ 04 trở đi lãi suất cho vay = Lãi suất tiết kiệm thường kỳ hạn 13 tháng, trả lãi cuối kỳ + biên độ lãi suất cho vay tối thiểu áp dụng đối với khách hàng (6,75%/năm), thời hạn vay 48 tháng, nợ gốc và lãi trả cố định ngày 10 hàng tháng, thời điểm trả hết nợ vào ngày 14/8/2022; bà T vay tiền không tài sản đảm bảo. Tính đến ngày 20/8/2020, đối với hợp đồng tín dụng số HDTD92020181303 bà T còn nợ Ngân hàng số tiền tổng cộng 57.068.648 đồng, trong đó vốn là 44.750.000 đồng và lãi là 12.318.648 đồng (lãi trong hạn 8.198.541 đồng, lãi quá hạn 4.120.107 đồng).

Kể từng ngày 11/02/2019, bà T không trả nợ đúng hạn, các khoản vay đều chuyển sang nợ quá hạn, mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu bà T khắc phục nhưng bà T không thực hiện. Nay Ngân hàng yêu cầu bà Trương Thị T có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 50.844.949 đồng, tiền lãi tính đến hết ngày 20/8/2020 là 15.257.585 đồng (lãi trong hạn 9.007.291 đồng, lãi quá hạn 6.250.294 đồng), và tiền lãi phát sinh từ ngày 21/8/2020 đến khi trả xong nợ theo mức lãi suất của các hợp đồng tín dụng mà bà T đã ký với Ngân hàng.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bà T, nhưng bà T vắng mặt không có lý do nên không có lời khai của bà T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật: Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, từ khi thụ lý đến phiên tòa hôm nay Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nên Viện kiểm sát không có kiến nghị gì. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn bà Trương Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không rõ lý do, do đó căn cứ Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng cá nhân ban hành kèm theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV, buộc bà Trương Thị T trả cho Ngân hàng số tiền nợ gốc là 50.844.949 đồng, tiền lãi tính đến hết ngày 20/8/2020 là 15.257.585 đồng (lãi trong hạn 9.007.291 đồng, lãi quá hạn 6.250.294 đồng), và tiền lãi phát sinh từ ngày 21/8/2020 đến khi trả xong nợ theo mức lãi suất của các hợp đồng tín dụng mà bà T đã ký với Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nội dung vụ kiện như sau:

[1] Về tố tụng:

Căn cứ vào đoạn 2 Điểm e Khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung” nên Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án. Bị đơn bà Trương Thị T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng bà T vắng mặt không rõ lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà T theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng với bà Trương Thị T là tranh chấp phát sinh trong hoạt động cho vay tín dụng, mục đích vay vốn tiêu dùng cá nhân, đây là tranh chấp dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Bị đơn bà Trương Thị T có nơi cư trú tại khóm X, phường Y, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu nên Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu đã thụ lý vụ án theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

Các chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện ngày ngày 25/9/2015, bà Trương Thị T có ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV, chi nhánh Bạc Liêu hợp đồng tín dụng số 23315TC-BL/HĐTD-LV, để vay số tiền 91.000.000 đồng, lãi suất vay là 12%/ năm trong 03 tháng đầu, từ tháng thứ 04 trở đi lãi suất cho vay = Lãi suất tiết kiệm thường kỳ hạn 13 tháng, trả lãi cuối kỳ + biên độ lãi suất cho vay tối thiểu áp dụng đối với khách hàng (4,75%/năm), thời hạn vay 48 tháng, nợ gốc và lãi trả cố định ngày 10 hàng tháng, thời điểm trả hết nợ vào ngày 25/9/2019; bà T vay tiền không tài sản đảm bảo; ngày 14/8/2018 bà Trương Thị T ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV chi nhánh Bạc Liêu hợp đồng tín dụng số HDTD92020181303, để vay số tiền 50.000.000 đồng, lãi suất vay là 13,25%/ năm trong 03 tháng đầu, từ tháng thứ 04 trở đi lãi suất cho vay = Lãi suất tiết kiệm thường kỳ hạn 13 tháng, trả lãi cuối kỳ + biên độ lãi suất cho vay tối thiểu áp dụng đối với khách hàng (6,75%/năm), thời hạn vay 48 tháng, nợ gốc và lãi trả cố định ngày 10 hàng tháng, thời điểm trả hết nợ vào ngày 14/8/2022; bà T vay tiền không tài sản đảm bảo. Tuy Tòa án không làm việc được với bà T nhưng căn cứ vào các hợp đồng tín dụng số 23315TC-BL/HĐTD-LV ngày 25/9/2015 và hợp đồng tín dụng HDTD92020181303 ngày 14/8/2018, khế ước nhận nợ và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định giữa bà T và Ngân hàng ký kết hợp đồng tín dụng với thỏa thuận gốc lãi, phương thức thanh toán như trên là có xảy ra trên thực tế.

Xét yêu cầu của Ngân hàng yêu cầu bà T trả số nợ theo hợp đồng tín dụng đã ký kết, Hội đồng xét xử thấy rằng các Hợp đồng tín dụng 23315TC-BL/HĐTD- LienvietPostBank ngày 25/9/2015 và HDTD92020181303 ngày 14/8/2018 giữa bà T và Ngân hàng có thể hiện đầy đủ địa chỉ cụ thể của khách hàng, số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay tiền, thời điểm trả nợ, phương thức trả nợ và các điều khoản khác được các bên thỏa thuận. Hợp đồng được các bên tự nguyện ký kết, hình thức, nội dung thỏa thuận của các bên là phù hợp, không trái quy định pháp luật nhưng khách hàng vay đã vi phạm hợp đồng, không thực hiện đúng thỏa thuận đã giao kết trong hợp đồng. Đến ngày 11/02/2019 bà T vi phạm hợp đồng không thanh toán gốc và lãi cho ngân hàng, tính đến ngày 20/8/2020, đối với hợp đồng tín dụng số HDTD92020181303 bà T còn nợ Ngân hàng số tiền tổng cộng 57.068.648 đồng, trong đó vốn là 44.750.000 đồng và lãi là 12.318.648 đồng (lãi trong hạn 8.198.541 đồng, lãi quá hạn 4.120.107 đồng); đối với hợp đồng tín dụng 23315TC-BL/HĐTD- LienvietPostBank bà T còn nợ Ngân hàng số tiền tổng cộng 9.033.886 đồng, trong đó vốn là 6.094.949 đồng và lãi là 2.938.937 đồng (lãi trong hạn 808.750 đồng, lãi quá hạn 2.130.187 đồng). Từ lúc vi phạm hợp đồng thì bà T không có mặt tại nơi cư trú, không thông báo địa chỉ mới cho Ngân hàng, cho thấy cố tình trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó, có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại Cổ phần LV đối với bà Trương Thị T. Bà Trương Thị T có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền 66.102.534 đồng, trong đó nợ gốc là 50.844.949 đồng, tiền lãi tính đến hết ngày 20/8/2020 là 15.257.585 đồng (lãi trong hạn 9.007.291 đồng, lãi quá hạn 6.250.294 đồng).

Về thỏa thuận lãi xuất giữa các bên, căn cứ tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng quy định “Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật” nên việc thỏa thuận về lãi suất cho vay giữa Ngân hàng và bà T là đúng quy định, được chấp nhận. Ngoài ra, bà Trương Thị T còn phải chịu lãi trên số tiền nợ gốc theo lãi xuất đã thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng kể từ ngày 21/8/2020 đến khi trả hết nợ.

Như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu tại phiên tòa.

[3] Về án phí:

Bà Trương Thị T có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền 66.102.534 đồng nên phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là: 66.102.534 đồng x 5% = 3.305.200 đồng.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Ngân hàng Thương mại cổ phần LV đã nộp 1.567.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006717 ngày 08/5/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Bạc Liêu được hoàn lại toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; điểm c khoản 1 Điều 217; Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Điều 91; điểm a khoản 3 Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 466; 688 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV.

Buộc bà Trương Thị T có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV số tiền 66.102.534 đồng (Sáu mươi sáu triệu một trăm lẻ hai nghìn năm trăm ba mươi bốn đồng), trong đó nợ gốc là 50.844.949 đồng, tiền lãi tính đến hết ngày 20/8/2020 là 15.257.585 đồng (lãi trong hạn 9.007.291 đồng, lãi quá hạn 6.250.294 đồng) Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh của lãi suất của Ngân hàng cho vay.

2. Về án phí: Buộc bà Trương Thị T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 3.305.200 đồng (Ba triệu ba trăm lẻ năm nghìn hai trăm đồng).

Ngân hàng Thương mại Cổ phần LV không phải chịu án phí. Ngân hàng Thương mại cổ phần LV đã nộp 1.567.000 đồng (Một triệu năm trăm sáu mươi bảy nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006717 ngày 08/5/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Bạc Liêu được hoàn lại toàn bộ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai, Ngân hàng hàng Thương mại Cổ phần LV, bà Trương Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:17/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về