Bản án 17/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 17/2019/HSST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 165/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 11/QĐXXST-HS ngày 16/01/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 11/QĐXXST-HS ngày 31/01/2019, đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Ngọc Á; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 04/02/1995, tại Đ Tr, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: Thôn Thọ Sơn, xã YTh, thị xã ĐTr, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Mạnh C (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; có vợ là chị Phạm Minh Th, sinh năm 1996; có 01 con sinh năm 2014; tiền án: không; tiền sự: Ngày 15/9/2017, Công an thị xã ĐTr, tỉnh Quảng Ninh xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi: “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: Ngày 30/11/2018, Tòa án Quân sự khu vực 1 - Quân khu 3 xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Ngày 26/02/2019, TAND thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; bị bắt tạm giam từ ngày 26/3/2018 đến ngày 02/6/2018; hiện đang thi hành án tại Trại giam Quân sự Miền Bắc, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Xuân Th; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 30/8/1981, tại ĐTr, tỉnh Quảng Ninh. Nơi cư trú: Tổ 2, khu Vĩnh Sơn, phường MKh, thị xã ĐTr, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn K và bà Trịnh Thị L; có vợ là Trần Thị Th, sinh năm 1982, có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 23/02/2017, Công an thị xã ĐTr, tỉnh Quảng Ninh xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi: “Trộm cắp tài sản”, đã thi hành ngày 23/02/2017; Ngày 14/01/2009, TAND thị xã Uông Bí (nay là thành phố Uông Bí), tỉnh Quảng Ninh xử phạt 30 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đã thi hành xong; Ngày 02/8/2018, TAND thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn từ ngày 08/3/2018; Ngày 30/11/2018, Tòa án Quân sự khu vực 1 Quân khu 3, xử phạt 30 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Ngày 18/12/2018, TAND huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử phạt 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Ngày 26/02/2019, TAND thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 24 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; hiện đang chấp hành án tại Trại giam Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty Cổ phần viễn thông di động Vnmb; Người đại diện theo pháp luật: FChMElzb;

Ngưi đại diện theo ủy quyền:

1. Anh Hoàng Minh H, sinh năm 1979 - Chức vụ: Phó giám đốc công nghệ, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Anh Lê Đức Tr, sinh năm 1989; địa chỉ: Xóm 2, xã LH, thị xã QY, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lê Đức Tr, sinh năm 1989; địa chỉ: Xóm 2, xã LH, thị xã QY, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Phạm Văn Y, sinh năm: 1953; địa chỉ: khu Công Nông, phường MKh, thị xã ĐTr, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Bà Đỗ Hải M, sinh năm: 1956; địa chỉ: tổ 2, khu Dốc Đỏ 1, phường PhĐ, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Nguyễn Duy T, sinh năm: 1957; địa chỉ: tổ 2, khu Dốc Đỏ 1, phường PhĐ, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 30 phút ngày 23/02/2018, Nguyễn Ngọc Á gặp Nguyễn Xuân Th tại khu vực cổng trường Đại học Cn Quảng Ninh (thuộc xã YTh, thị xã ĐTr). Á rủ Th đi trộm cắp bình ắc quy tại các trạm thu phát sóng điện thoại ở thành phố UB. Vì đã từng cùng Á đi trộm cắp bình ắc quy tại thị xã ĐTr và có sẵn kìm, cờ lê cất giấu trong người nên Th đồng ý. Cả hai lên một chiếc taxi gần đó rồi đi xuống thành phố UB tìm trạm thu phát sóng điện thoại. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Á bảo xe taxi rẽ sang đường vào chùa YT thuộc khu Dốc Đỏ 1, phường PhĐ, thành phố UB. Đi tiếp khoảng 200-300m, Á và Th quan sát thấy có 01 trạm thu phát sóng điện thoại của Công ty Cổ phần Viễn thông Di động Vnmb (Ký hiệu trạm BTS 149011) không có người trông coi. Á bảo tài xế di chuyển xe taxi đến gần Trạm thu phát sóng, Th trả tiền xe để xe rời đi.

Do cổng khoá, Á và Th lần tìm theo đường mòn vòng ra phía sau hàng rào của Trạm rồi trèo rào vào trong sân Trạm. Tiếp đó, Á trèo cầu thang sắt lên tường rào ngồi trông coi, còn Th trực tiếp dùng kìm và cờ lê vặn gãy đứt tai khoá cửa chính để vào trong Trạm. Sau khi vào bên trong, Thu quan sát thấy có 08 bình ắc quy nhãn hiệu Northstar NBS170FT Red Battery, vỏ nhựa hai màu trắng - đỏ, có kích thước khoảng (50 x 20 x 30) cm đặt trên kệ sắt gần cửa ra vào. Th dùng cờ lê tháo ốc vít ở đầu các bình ắc quy để rời dây điện ra, rồi lần lượt bê 08 bình đặt ngoài cửa chính. Sau đó, Á cùng Th bê 08 bình ắc quy ra phía cổng trạm. Th dùng cờ lê và kìm vặn bẻ làm gãy, rách tai khoá cổng rồi cùng Á đưa các bình này ra ngoài. Á thấy 01 chiếc taxi đi ngang qua nên đã vẫy xe dừng lại, cả hai đặt 08 bình ắc quy vào cốp sau rồi lên xe, yêu cầu taxi đưa đến nhà ông Phạm Văn Y ở tổ 5, khu Công Nông, phường MKh, thị xã ĐTr, chuyên thu mua vật liệu. Cả hai nói 08 bình ắc quy này là của mình và bán cho ông Y với giá 6.000.000 đồng. Trừ chi phí đi xe taxi và tiền ăn uống chung hết 2.400.000 đồng, còn lại 3.600.000 đồng, Th và Á chia nhau mỗi người 1.800.000 đồng, đều đã ăn tiêu hết.

Ngày hôm sau, ông Y bán 08 chiếc bình ắc quy trên cho một người đàn ông không quen biết với giá 6.400.000 đồng, hưởng lợi 400.000 đồng. Quá trình điều tra, ông Y nộp lại số tiền đã hưởng lợi nêu trên.

Ngày 28/02/2018, anh Lê Đức Tr (sinh năm 1989, trú tại xóm 2, xã LH, thị xã QY, tỉnh Quảng Ninh) là người được giao quản lý, vận hành Trạm thu phát sóng BTS 149011 đến Trạm kiểm tra, đã phát hiện bị mất trộm các bình ắc quy nên đã trình báo Công an.

Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện: Trạm BTS 149011 có cổng bằng kim loại, dạng 01 cánh mở vào trong, có then cài ngang, kích thước (2,2 x 1,3) m, phần tai khoá đã bị bẻ cong. Đi từ cổng chính vào 04m là vị trí đặt trạm chính được dựng bằng nhôm có cửa chính dạng 01 cánh mở ra ngoài, kích thước (02 x 0,8) m, phần tai khoá ở cửa cách 01m so với mặt sàn có dấu hiệu bị cạy phá. Bên trong phòng, sát bức tường phía Bắc có kê 01 khung kim loại kích thước (60 x 60 x 80) cm, gồm hai ngăn, phía trên đặt 01 máy điều khiển, phía dưới là vị trí đặt 08 bình ắc quy bị trộm (theo lời khai của anh Tr), trên sàn nhà dưới chân khung kim loại có một số mảnh nhựa màu trắng vương vãi.

Kết luận định giá tài sản số 28 ngày 11/4/2018, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố UB kết luận: 08 chiếc bình ắc quy nhãn hiệu Northstar NSB170FT Red Battery 12v 172Ah, đã qua sử dụng có giá là: 57.600.000 đồng.

Ngày 09/3/2018, Công an thị xã ĐTr, tỉnh Quảng Ninh có Công văn trao đổi với Công an thành phố UB về việc: Ngày 08/3/2018, Công an thị xã ĐTr kiểm tra hành chính Nguyễn Xuân Th. Th khai đã cùng với Nguyễn Ngọc Á trộm cắp 08 bình ắc quy vào ngày 23/02/2018 tại Trạm thu phát sóng di động (BTS) ở đường vào YT, thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh. Cùng ngày, Công an ĐTr đã bắt quả tang Th có hành vi tàng trữ ma tuý (TAND thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã xét xử ngày 02/8/2018).

Quá trình điều tra, các bị cáo Nguyễn Ngọc Á và Nguyễn Xuân Th khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho các bị cáo thực nghiệm điều tra, kết quả phù hợp với lời khai nhận tội của các bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Anh Hoàng Minh H - Đại diện theo ủy quyền của bị hại là Công ty Cổ phần Viễn thông Di động Vnmb, yêu cầu các bị cáo phải bồi thường tổng số tiền là 57.600.000 đồng, hiện các bị cáo chưa bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 170/CT-VKSUB ngày 28/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Ngọc Á, Nguyễn Xuân Th, về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Á từ 30 đến 36 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án.

- Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Th từ 30 đến 36 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án.

- Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, nộp Ngân sách nhà nước đối với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng); buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc Á và Nguyễn Xuân Th phải bồi thường cho Công ty cổ phần viễn thông di động Vnmb, tổng số tiền là: 57.600.000 đồng (Năm mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền là: 28.800.000 đồng (Hai mươi tám triệu tám trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận hành vi trộm cắp tài sản đúng như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và xin giảm nhẹ hình phạt. Các bị cáo không tranh luận, lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện theo ủy quyền của Bị hại; Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Lê Đức Tr và ông Phạm Văn Y; Những người làm chứng: bà Đỗ Hải M và ông Nguyễn Duy T, có lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với nội dung vụ án như đã nêu trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo; bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc định tội: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai xác nhận của bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; người làm chứng; biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận định giá tài sản, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa hôm nay. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 23/02/2018, tại Trạm thu phát sóng điện thoại BTS 149011 đặt tại tổ 3, khu Dốc Đỏ 1, phường PhĐ, thành phố UB, Nguyễn Ngọc Á và Nguyễn Xuân Th có hành vi lợi dụng sơ hở, trộm cắp 08 bình ắc quy trị giá 57.600.000đ (Năm mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng) của Công ty Cổ phần Viễn thông Di động Vnmbi.

Các bị cáo là người thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, tuy biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do bản tính lười lao động, muốn biến tài sản của người khác thành tài sản của mình qua con đường bất hợp pháp nên bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản trong việc trông coi Trạm thu phát sóng điện thoại BTS 149011 đặt tại tổ 3, khu Dốc Đỏ 1, phường PhĐ, thành phố UB, để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, đây là một trong những quyền được pháp luật Nhà nước bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội. Các bị cáo Nguyễn Ngọc Á và Nguyễn Xuân Th trộm cắp 08 bình ắc quy trị giá 57.600.000đ (Năm mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng) của Công ty Cổ phần Viễn thông Di động Vnmb, do đó hành vi của 02 bị cáo trên đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

...

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng””.

[3] Về hình phạt:

[3.1] Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm bởi nó xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản, đây là một trong những quyền được pháp luật Nhà nước bảo vệ, khiến tình hình trật tự trị an xã hội phức tạp, cho nên để tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung cũng như để giáo dục, cải tạo riêng đối với các bị cáo cần có một hình phạt nghiêm, xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục bị cáo sửa chữa lỗi lầm của bản thân để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Xét vai trò, mức độ tham gia, tính chất hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo thấy: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn. Bị cáo Á là người trực tiếp khởi xướng và cùng thực hiện việc trộm cắp tài sản; bản thân bị cáo cũng có nhân thân xấu, có 01 tiền sự và nhiều lần phạm tội đã bị xét xử, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh, tự rèn luyện, cải tạo, sửa chữa bản thân, do đó bị cáo Á giữ vai trò đầu trong vụ án.

Đi với bị cáo Th ngay khi được bị cáo Á rủ đi trộm cắp, bị cáo Th đồng ý tham gia và thống nhất cao về mặt ý chí với Á, cùng tích cực thực hiện việc trộm cắp tài sản. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần phạm tội và đã bị xét xử, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cảnh tỉnh, tự rèn luyện, sửa chữa bản thân để trở thành người công dân tốt mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do đó, cần xem xét áp dụng cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo Th khi bị bắt trong vụ án khác đã tự khai ra hành vi phạm tội của vụ án này và bố đẻ của bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huy chương vì sự nghiệp phát triển công nghiệp Việt Nam, nên bị cáo Th được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, để các bị cáo có cơ hội sửa chữa, cải tạo sớm trở lại thành người có ích cho xã hội.

Trưc khi xét xử vụ án này, các bị cáo đã bị xét xử với các hình phạt như: đối với bị cáo Á, ngày 30/11/2018, Tòa án Quân sự khu vực 1 Quân khu 3 xử phạt 18 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, đến nay bản án đã có hiệu lực, bị cáo đã có Quyết định đi thi hành án. Đối với bị cáo Th, ngày 02/8/2018, TAND thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 15 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn từ ngày 08/3/2018; Ngày 30/11/2018, Tòa án Quân sự khu vực 1 Quân khu 3, xử phạt 30 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Ngày 18/12/2018, TAND huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xử phạt 15 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản”, đến nay các bản án đã có hiệu lực, bị cáo đã có Quyết định đi thi hành án. Tuy nhiên, ngày 26/02/2019, TAND thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, đã xử phạt bị cáo Á 18 tháng tù và xử phạt bị cáo Th 24 tháng tù về tội: “Trộm cắp tài sản” và đã tổng hợp hình phạt của các bản án nêu trên đối với các bị cáo, đến nay bản án số 08, ngày 26/02/2019, của TAND thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh chưa có hiệu lực pháp luật, nên Hội đồng xét xử không tổng hợp hình phạt đối với các bị cáo tại bản án này.

[3.2] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể bị phạt một khoản tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) nhưng xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định; không có thu nhập, nên miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[4] Về bồi thường dân sự: Công ty Cổ phần Viễn thông Di động Vnmb yêu cầu các bị cáo phải bồi thường tổng số tiền là 57.600.000 đồng, đây là yêu cầu có căn cứ, được chấp nhận. Do vậy, buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc Á và Nguyễn Xuân Th phải bồi thường cho Công ty cổ phần viễn thông di động Vnmb tổng số tiền là: 57.600.000 đồng (Năm mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), các bị cáo cùng thực hiện việc trộm cắp và mang bán tài sản và cùng nhau ăn chia tiền như nhau, nên mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền là: 28.800.000 đồng (Hai mươi tám triệu tám trăm nghìn đồng).

[5] Đi với ông Phạm Văn Y là người đã mua lại 08 bình ắc quy của Á và Th nhưng không biết số tài sản trên là do Á và Th trộm cắp mà có nên không đề cập xử lý; Đối với người đã mua lại 08 chiếc bình ác quy từ ông Y và 02 người nam giới là lái xe taxi điều khiển chở Á và Th, đến nay không xác định được con người cụ thể và địa chỉ ở đâu. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, nên không đề cập xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng: Số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) của ông Phạm Văn Y nộp là tiền thu lời bất chính, cần tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo; bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Ngọc Á, Nguyễn Xuân Th phạm tội: “Trộm cắp tài sản’’.

Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Á 33 (ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án bản án.

- Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự: xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Th 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án.

2. Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Ngân sách nhà nước đối với số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng), (Tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng hồi 15 giờ 40 phút, ngày 27 tháng 7 năm 2018 giữa Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố UB, tỉnh Quảng Ninh).

- Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc Á và Nguyễn Xuân Th phải bồi thường cho Công ty cổ phần viễn thông di động Vnmb, tổng số tiền là: 57.600.000 đồng (Năm mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền là: 28.800.000 đồng (Hai mươi tám triệu tám trăm nghìn đồng).

3. Áp dụng: khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc Á và Nguyễn Xuân Th mỗi bị cáo phải nộp: 1.440.000đ (Một triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm và 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

389
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HSST ngày 28/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:17/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về