Bản án 17/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2019/HSST ngay 23 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/HSST-QĐXX ngày 14 tháng 02 năm 2019, đôi vơi bị cáo:

Nguyễn Thị KT (tên gọi khác: B), sinh năm 1988, tại tỉnh B; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số … đường T, phường N, thành phố V, tỉnh B; Nơi ở khi bị bắt: nhà không số, cạnh nhà số … đường T, phường T, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: lao động phổ thông; Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Con ông Nguyễn Thanh M và bà Nguyễn Thị Y; Có chồng là Lưu Chí Q đã chết; Có 01 con sinh năm 2004; Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 29/02/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/6/2008, đóng án phí HSST ngày 15/5/2008; Ngày 05/10/2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 9 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 26/8/2016 chấp hành xong hình phạt tù theo giấy chứng nhận số 22/GCN của trại giam Thủ Đức, đóng tiền án phí HSST ngày 30/9/2014; Bị bắt, tạm giam ngày 14 tháng 10 năm 2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17h00’ ngày 14/10/2018, Đồn Biên phòng Bến Đá-Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết hợp với Công an phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu kiểm tra nhà không số, cạnh nhà số  T, phường T, thành phố V thì Nguyễn Thị KT tự nguyện giao nộp 13 gói nylon, bên trong có chứa chất kết tinh màu trắng đục (trong thủ lạnh). T khai là ma túy tổng hợp (MTTH) loại hàng đá, T mua với giá 500.000đ của người phụ nữ tên Cọp không rõ lai lịch ở khu vực hẻm … Trần Phú, phường T, thành phố Vũng Tàu với hình thức T đưa tiền qua khe cửa sổ và nói với người phụ nữ tên Cọp: “500 ma túy”, sau đó có người trên gác căn nhà trên thả xuống cho T 03 gói MTTH. T đem về chia ra được 13 gói để trong tủ lạnh để sử dụng thì bị cơ quan chức năng kiểm tra và T đã giao nộp.

Tại Bản kết luận giám định số: 293/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 16 tháng 10 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu kết luận:

- Mẫu chất kết tinh không màu, trong suốt chứa trong 13 (mười ba) gói nylon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Đồn Biên phòng Bến Đá-Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cùng các chữ ký ghi họ tên: Trung tá Nguyễn Văn Khánh, Phạm Đức Tiến, Nguyễn Thị KT, Nguyễn Việt Tú, Nguyễn Văn Đường gửi đến giám định có khối lượng 1,3716 gam, là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Đối với người phụ nữ tên Cọp đã bán ma túy cho T, ngày 17/10/2018 Đồn Biên phòng Bến Đá-Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu kết hợp với Công an phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu đã áp giải Nguyến THị Kim T đến hẻm 473 Trần Phú, phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu, T chỉ căn nhà số 473/6 là nơi có đối tượng tên Cọp đã bán ma túy cho T. Biên bản xác minh lúc 11h00’ ngày 17/10/2018 và lúc 10h30’ ngày 22/10/2018 Công an phường Thắng Nhì, thành phố Vũng Tàu cung cấp: Tại số nhà ….. T phường T, thành phố V có đương sự tên Nguyễn Thị T (Cọp), sinh năm 1986; HKTT: số…. T, phường T, thành phố V, đã chuyển hộ khẩu về số … đường T, phường T, thành phố V, tỉnh B từ ngày 10/10/2018. Nguyễn Thị T không đăng ký tạm trú tại số nhà … T, phường T, thành phố Vũng Tàu. Tại biên bản nhận dạng qua ảnh lúc 08h ngày 11/12/2018 T không nhận dạng được ảnh của người phụ nữ có tên Cọp trong bản ảnh. Nguyễn Thị T không nhận đã bán ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thị KT đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 22-01-2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị KT, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Thị KT đã khai nhận về toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo. Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị KT, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị KT từ 5 đến 6 năm tù. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma tuý là tang vật vụ án; Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị KT đã khai nhận toan bô hanh vi pham tôi cua minh   đúng như nội dung cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang lập vào hồi 17 giờ 10 phút ngày 14/10/2018. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xac đinh Nguyễn Thị KT có hành vi tàng trữ 1,3716 gam ma túy, loại Methamphetamine để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị KT đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo, do chưa xác định được lai lịch nên đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra là nguy hiêm cho xã hội  ; đã xâm phạm đến quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy; gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội; bị cáo có nhân thân xấu, từng bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy nên cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng để bị cáo sớm trở thành công dân tốt và răn đe, phòng ngừa chung về tội phạm xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo sử dụng ma túy, không xác định được thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật vụ án;

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

1.1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị KT (B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị KT 6 năm tù, thời hạn được tính từ ngày 14 tháng 10 năm 2018.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng  Điêu 47 Bộ luật Hình sự năm  2015, Điêu 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số: 293/GĐMT-PC09 (Đ4) ngày 16 tháng 10 năm 2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 77/BB.THA ngày 24 tháng  01 năm 2019.

3. Về án phi hinh sư sơ thâm : Bị cáo Nguyễn Thị KT phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đông) theo quy định tại khoản 2 Diều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 28/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về