Bản án 17/2019/HS-ST ngày 20/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HD, TỈNH HD

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 20/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 02 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố HD. Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh HD xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo: 

Đàm Văn T, sinh năm 1987 tại HD. ĐKHKTT và chỗ ở: Khu Phú Thọ, phường TK, thành phố HD, tỉnh HD; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đàm Văn T và bà Đàm Thị T ; bị cáo chưa có vợ con, gia đình có ba anh em – bị cáo là con thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại quyết định số 10 ngày 23/5/2012 của Công an tỉnh HD xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy  (nộp tiền phạt ngày 24/5/2012). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/11/2018 đến ngày 21/11/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam KC-Công an HD đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Những người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

+ Ông Lê Văn Ch, sinh năm 1959; trú tại: Khu 10, phường BH, thành phố HD (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1970; trú tại: Số 5/5/61 TP, phường TP, thành phố HD (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKSTPHD ngày 21/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, tỉnh HD truy tố Đàm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự với căn cứ: Vào hồi 10 giờ, ngày 19/11/2018, tại trước cửa số nhà 12 đường Thanh Niên, phường QT, thành phố HD. Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy– Công an thành phố HD phát hiện bắt quả tang Đàm Văn T đang cất giấu trái phép một gói nilon màu đen, kích thước khoảng 0,5x1 cm, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. T khai nhận là Heroine cất giấu để sử dụng cho bản thân. Quá trình bắt giữ T, tiến hành thu giữ gói ma túy và chiếc xe mô tô kiểu dáng Wave α màu đỏ, biển số 34G1-025.69 có sự chứng kiến của ông Lê Văn Ch ở Khu 10, phường BH, thành phố HD và anh Nguyễn Xuân H ở 5/5/61 Trần Phú, phường TP, thành phố HD.

Tại cơ quan điều tra Đàm Văn T khai nhận: Do bản thân là người nghiện chất ma túy (loại Heroine) nên khoảng 09 giờ ngày 19/11/2018, Tình điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave α màu đỏ, biển số 34G1-025.69 mượn của anh Nguyễn Văn Tr ở số 24 Lê Cảnh T, khu 3 phường HT, thành phố HD đến khu vực đường tàu thuộc phường BH, thành phố HD mua được 01 gói ma túy với số tiền 100.000 đồng của một người đàn ông không rõ họ tên, địa chỉ rồi cầm trên tay trái đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 10 cùng ngày, khi T đi đến số nhà 12 đường Thanh Niên, phường QT, thành phố HD thì bị công an thành phố HD kiểm tra, T đã vứt gói ma túy xuống đất ngay vị trí đang đứng.

Tại kết luận giám định số 599/KLGĐ-PC09 ngày 21/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh HD kết luận: Chất bột (dạng cục) mầu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Đàm Văn T gửi đến giám định có khối lượng là 0,149 gam là ma túy, loại Heroine. Hoàn trả 0,103 gam Heroine sau giám định.

Tại phiên tòa, bị cáo Đàm Văn T thừa nhận vào hồi 10 giờ, ngày 19/11/2018, tại trước cửa số nhà 12 đường Thanh Niên, phường QT, thành phố HD; T đã bị cơ quan điều tra công an thành phố HD bắt giữ do thực hiện hành vi cất giấu trái phép một gói Heroine để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhất trí với kết luận giám định; thể hiện thái độ ăn năn hối cải; công nhận Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đàm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đàm Văn T từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/11/2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ xác định bị cáo Đàm Văn T có tội và áp dụng pháp luật: Bị cáo Đàm Văn T thừa nhận vào hồi 10 giờ, ngày 19/11/2018, tại trước cửa số nhà 12 đường Thanh Niên, phường QT, thành phố HD đã cố ý thực hiện hành vi cất giấu trái phép một gói Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản niêm phong, biên bản mở niêm phong vật chứng bị tạm giữ. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với các chứng cứ khác như: Bản tự khai của bị cáo, biên bản lấy lời khai bị cáo, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản lấy lời khai của những người làm chứng đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép ma túy là loại Heroine có khối lượng là 0,149 gam nên bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố và bị đưa ra xét xử về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đủ căn cứ, đúng người thực hiện hành vi phạm tội và đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu, bị Công an tỉnh HD xử phạt vi phạm hành chính về

hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà lại thực hiện hành vi phạm tội nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đủ tác dụng giáo dục và đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có thu nhập ổn định, tàng trữ trái phép ma túy số lượng không lớn và mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về biện pháp tư pháp: Đối với vật chứng cơ quan giám định hoàn lại, xét thấy Heroine là chất Nhà nước cấm lưu hành, vỏ bao gói không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về các vấn đề khác: Anh Nguyễn Văn Tr cho bị cáo T mượn xe mô tô nhưng không biết T sử dụng vào việc phạm tội; hành vi bán ma túy cho T của đối tượng nam giới không xác định được nên cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm của những người này là phù hợp.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave α màu đỏ, biển số 34G1- 025.69 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố HD đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Nguyễn Văn Tr nên không đặt ra giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đàm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đàm Văn T 13 (mười ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/11/2018.

3. Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine và vỏ bao gói hoàn trả sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 599/KLGĐ-PC09.

(Vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/01/2019 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố HD và Chi cục thi hành án dân sự thành phố HD).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Đàm Văn T phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đàm Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 20/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về