Bản án 17/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 17/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 09 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 15/2019/TLST-HS, ngày 06 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2019/QĐXXST-HS, ngày 18 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2019/QĐST-HS, ngày 01 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Thanh T, sinh năm 1996, tại: Tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã Đ, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Nơi đăng ký tạm trú hiện nay: Số 25 đường L, Khu phố 5, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 09/12;  dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông Phan Thanh V, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1973; Bị cáo có 02 chị (lớn sinh năm 1990, nhỏ sinh năm 1992); bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: tốt. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/3/2019 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Lê Văn H, sinh năm 1946. Địa chỉ: Ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai (đã chết ngày 22/11/2018).

- Người đại diện hợp pháp của Bị hại: Ông Ngô Văn N, sinh năm 1966. Địa chỉ cư trú: Ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai là người đại diện theo ủy quyền của những người thừa kế của ông Lê Văn H gồm: bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1947 (vợ) và bà Lê Thị Ngọc Y, sinh năm 1966, bà Lê Thị Ngọc M, sinh năm 1970 (con) (Giấy ủy quyền ngày 19/12 và 21/12/2018 tại Văn phòng Công chứng B) – Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Lê Hồng H, sinh năm 1983. Địa chỉ cư trú: phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương;

+ Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1979; Hộ khẩu thường trú: Ấp 6, xã X, huyện Y, tỉnh Đồng Nai; nơi tạm trú hiện nay: Ấp P, xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương – Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1979; Hộ khẩu thường trú: Ấp 6, xã X, huyện Y, tỉnh Đồng Nai; nơi tạm trú hiện nay: Ấp P, xã V, thị xã T, tỉnh Bình Dương, là người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Hồng H (Văn bản ngày 29/11/2018) – Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Ông Nguyễn Hữu N, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: Ấp 3, xã T, huyện B, tỉnh Bình Dương, là người làm chứng trong vụ án – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Thanh T có Giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 79018816 xxxx, do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/8/2018, có giá trị đến ngày 27/8/2023. T là tài xế lái xe thuê cho vợ chồng bà Lê Hồng H, ông Nguyễn Văn T từ tháng 10/2018.

Khoảng 10 giờ sáng ngày 22/11/2018, Phan Thanh T điều khiển xe ô tô tải, biển số 61C-311.xx, chở vật liệu xây dựng từ hầm đá Tân M thuộc xã T, huyện B ra đường ĐT 7xx và rẽ phải hướng về thị xã T, tỉnh Bình Dương để đi về đổ hàng tại xã V, thị xã T. Cùng thời gian này, ông Lê Văn H, sinh năm 1946, trú tại ấp B, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Nai cũng đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 50LB-96xx kéo theo một moọc lôi chất đầy phế liệu, ve chai lưu thông cùng chiều phía sau ô tô biển số 61C-311.xx. Đến đoạn đường thuộc Ấp 3, xã T, huyện B, do xe bị hỏng chân phanh nên T cho xe tấp vào lề phải để vào gara của anh N sửa xe. Khi T cho xe dừng sát lề phải thì đã vượt qua khỏi cửa vào gara 10m nên T dừng xe ô tô, quan sát kính chiếu hậu không thấy vật cản phía sau nên T mở đèn cảnh báo tín hiệu ưu tiên và cài số để lùi xe lại. Trong lúc lùi xe, T nghe tiếng va chạm mạnh vào thùng xe tải, T quan sát phía sau thì nhìn thấy một xe mọoc lôi ngã ra đường, T biết đã xảy ra tai nạn nên cài số về 0 và bước xuống xe, nhưng do không kéo thắng tay và đường dốc nên xe ô tô tải biển số 61C-311.xx do T điều khiển trôi về phía trước 01 mét. T kéo thắng tay tắt máy xe và bước xuống quan sát thì nhìn thấy một người đàn ông bị xe tải cán qua người đã tử vong.  T đi vào gara của anh N hỏi mượn xe mô tô để đi đến Công an xã T trình báo sự việc.

Theo Biên bản khám nghiệm hiện trường và Sơ đồ hiện trường ngày 22/11/2018 của Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thể hiện: Thời điểm khám nghiệm hiện trường và thời điểm xảy ra tai nạn giao thông là ban ngày, trời nắng tự nhiên, hiện trường còn để lại nguyên vẹn, nạn nhân là ông Lê Văn H đã chết còn nằm tại hiện trường, đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, không có vạch kẻ đường, mặt đường đổ bê tông, chiều rộng mặt đường là 7m.

Sau khi tai nạn xảy ra hiện trường còn để lại:

- Xe ô tô, biển số 61C-311.xx đỗ trên đường bên phải theo hướng đi, đầu xe quy về hướng xã T, đuôi xe quay về hướng xã Đ, trục trước bên phụ xe ô tô cách mép đường bên phải xe ô tô là 0,8m, lần lượt 02 trục sau bên phụ cách mép đường là 0,9m.

- Xe mô tô có kéo theo một moọc lôi tự chế, biển số 50LB- 96xx ngã nằm trên mặt đường, đầu xe mô tô quay ra đường, yên xe quy về hướng xã Đ. Từ trục trước xe mô tô đo vào mép đường bên phải là 1,2m, trục sau đo vào mép đường là 0,2m, trục sau xe mô tô đo đến trục sau cùng bên phụ (bên phải) của xe ô tô là 4,2m, trục sau moọc lôi bên trái đo ra mép đường là 0,5m, trục sau moọc lôi bên phải đo ra mép đường là 1,3m. Vết sạt bánh xe sau của xe mô tô để lại trên mặt đường từ đầu vết sạt cho đến trục sau xe mô tô dài 04m, đầu vết sạt đo vào mép đường là 0,5m, điểm cuối vết sạt nằm ngay bánh sau xe mô tô. Xác định điểm va chạm giữa hai phương tiện đo vào mép đường là 0,9m, từ điểm va chạm đo đến đầu vết sạt là 1,2m.

- Nạn nhân Lê Văn H chết tại hiện trường, tư thế nằm ngữa, đầu quay ra đường hơi chếch về hướng xã Thường Tân, chân quay về hướng xã T, đầu nạm nhân cách mép đường 1,7m, chân phải nạn nhân cách mép đường 0,7m, chân trái nạn nhân cách mép đường 1,7m. Đầu nạn nhân cách trục sau cùng bên trái của xe ô tô là 1,7m, cách trục trước xe mô tô là 2,1m.

Theo các Biên bản khám nghiệm các phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông ngày 22/11/2018 của Công an huyện Bắc Tân Uyên thể hiện:

- Xe ô tô, biển số 61C-311.xx: Cản sau bên trái trầy xước không liên tục, kích thước 20cm x 3cm; mặt ngoài bánh xe sau cùng bên trái có dính mô cơ kích thước 17cm x 6cm; mặt trong bánh xe sau cùng bên trái có dính vết màu nâu đỏ, dính mô cơ kích thước 130cm x 18cm; mặt ngoài bánh xe sau cùng (phía trong) có dính vết màu nâu đỏ, dính mô cơ kích thước 170cm x 19cm.

- Xe mô tô, biển số 50LB-9651: đầu đèn trước bị bung bát cố định; ốp nhựa mặt nạ trước bể bung khỏi vị trí cố định; ốp trước ngay chân ga bị trầy xước, tróc sơn, kích thước 8cm x 1,2cm; mặt ngoài bánh sau bên trái bị mài mòn kích thước 20cm x 2,5cm; cong chân chóng moọc lôi tự chế theo hướng từ trước ra sau; hàng hóa trên moọc lôi tự chế dài 2,4m, cao 1,4m, rộng 0,7m.

Theo Biên bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 18/2018/GĐPYTT ngày 24/11/2018 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh Bình Dương kết luận nguyên nhân tử vong của nạn nhân Lê Văn H: Nạn nhân bị đa chấn thương vùng ngực, bụng mức độ nặng: gãy nát 1/3 giữa cẳng chân phải, gãy xương đòn trái, gãy khung chậu, gãy nát xương sường hai bên, vỡ tim, đứt rời cột sống, vỡ nát gan, ruột, thận trái, lách, phòi tổ chức ruột, bàng quang, tinh hoàn ra ngoài.

Đối với xe ô tô, biển số 61C-311.xx do bà Lê Hồng H đứng tên chủ sở hữu, thuộc tài sản chung của vợ chồng bà H và ông Nguyễn Văn T. Cuối tháng 10/2018, ông T thuê bị cáo Phan Thanh T lái xe chở hàng, trả tiền công theo tháng. Ngày 07/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra quyết định xử lý vật chứng số 15, trả xe ô tô, biển số 61C-311.48, giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô, biển số 61C-311.48, giấy chứng nhận bảo hiểm bắc buộc trách nhiệm dân sự xe ô tô và Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô trên cho Nguyễn Văn T.

Đối với 01 moọc lôi tự chế do ông Lê Văn H là chủ sở hữu, ngày 07/01/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra quyết định xử lý vật chứng số 15 trả lại tài sản trên cho ông Ngô Văn N là người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Văn H.

Đối với xe mô tô, biển số 50LB-96xx, số máy: C50E-62912xx, số khung: không. Qua tra cứu, xác minh xác định không có dữ liệu đăng ký sở hữu xe mô tô trên. Ngày 24/12/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra Thông báo số 112 truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa tìm được chủ sở hữu xe mô tô nói trên.

Đối với giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 79018816xxxx, mang tên Phan Thanh T, do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/8/2018, có giá trị đến ngày 27/8/2023 đã thu giữ của bị cáo trong quá trình điều tra. Ngày 04/4/2019, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên đã chuyển vật chứng cho Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bắc Tân Uyên tạm giữ để đảm bảo cho việc thi hành án.

Quá trình điều tra, bị cáo Phan Thanh T và người đại diện hợp pháp chủ sở hữu xe ô tô biển số 61C-311.xx là ông Nguyễn Văn T đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại về tính mạng, tổn thất về tinh thần, tài sản và chi phí khác cho gia đình bị hại gồm bà Huỳnh Thị H, chị Lê Thị Ngọc M, Lê Thị Ngọc Y, số tiền 130.000.000đ (Một trăm ba mươi triệu đồng), gia đình bị hại cam kết không yêu cầu bị cáo hoặc chủ sở hữu xe ô tô biển số 61C-311.xx, bồi thường thêm khoản thiệt hại nào khác đồng thời bà H, chị M đại diện gia đình bị hại đã có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Phan Thanh T. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Ngô Văn N là người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại các khoản nào khác, đồng thời xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Phan Thanh T.

Tại bản Cáo trạng số 17/CT-VKSBTU ngày 05/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phan Thanh T, về tội “Vi phạm qui định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 (Bị hại có đơn bãi nại cho bị cáo) của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Thanh T mức hình phạt từ 12 đến 18 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Giữa bị cáo, đại diện hợp pháp của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là xe ô tô biển số 61C-311.xx và đại diện hợp pháp của gia đình bị hại đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường xong, đại diện gia đình bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại các khoản nào khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với xe ô tô biển số 61C-311.xx thuộc sở hữu của bà Lê Hồng H và các giấy tờ: giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô, biển số 61C-311.xx, giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự xe ô tô và Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô nói trên cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã xử lý xong nên không đặt ra.

Đối với một moọc lôi tự chế thuộc sở hữu của ông Lê Văn H, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã trả lại cho gia đình bị hại nên không đặt ra.

Đối với Giấy phép lái xe hạng C, số 79018816xxxx do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấpcho Phan Thanh T ngày 27/8/2018 có hạn sử dụng đến ngày 27/8/2023 do việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T là không cần thiết nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên trả lại cho bị cáo T.

Đối với xe mô tô, biển số 50LB-9651, số máy: C50E-6291244, số khung: không. Xét thấy xe mô tô nói trên chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên tiếp tục tạm giữ để làm rõ và xử lý sau.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo Phan Thanh T xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của người làm chứng ông Nguyễn Hữu N nhưng trong giai đoạn điều tra, đã có đầy đủ lời khai rõ ràng, cụ thể nên việc vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Phan Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: Phan Thanh T có Giấy phép lái xe hạng C, số 79018816xxxx, do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/8/2018, có giá trị đến ngày 27/8/2023. Tháng 10/2018, T xin vào lái xe tải thuê biển số 61C-311.xx cho vợ chồng bà Lê Hồng H, ông Nguyễn Văn T. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 22/11/2018, T điều khiển xe ô tô nói trên chở đất lưu thông trên đường ĐT 7xx hướng từ xã T về thị xã T. Khi đến đoạn đường dốc thuộc địa phận ấp 3, xã T, huyện B, do xe bị hỏng phanh nên T tấp xe vào lề phải để vào gara sửa xe. Do xe chạy khỏi gara khoảng 10m nên T bật đèn báo hiệu nguy hiểm và cài số lùi xe về phía sau. Vì bất cẩn, thiếu quan sát phía sau đuôi xe tải có ông Lê Văn H điều khiển xe mô tô biển số 50LB-96xx kéo theo 01 moọc lôi tự chế chở phế liệu chạy cùng chiều nên khi T cài số lùi xe đã gây tai nạn. Hậu quả, ông Lê Văn H bị bánh sau bên trái xe ô tô chèn qua người tử vong tại chỗ, hai phương tiện hư hỏng nhẹ.

[2] Theo Biên bản kết luận giám định pháp y tử thi số 18/2018/GĐPYTT ngày 24/11/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương kết luận: Ông Lê Văn H bị đa chấn thương vùng bụng, ngực mức độ nặng, vỡ tim, đứt rời cột sống, vỡ nát gan, ruột, thận trái, lách dẫn đến tử vong.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông, biên bản khám nghiệm xe ôtô, xe môtô, bản kết luận giám định pháp y tử thi cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của Phan Thanh T điều khiển xe ôtô tải biển số 61C-311.xx thiếu quan sát khi lùi xe đã gây tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả ông Lê Văn H tử vong tại chỗ là vi phạm khoản 1 Điều 16 Luật Giao thông đường bộ. Hành vi của Phan Thanh T đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác. Với tình hình tai nạn giao thông xảy ra trên địa bàn huyện Bắc Tân Uyên ngày càng gia tăng như hiện nay, là do ý thức không chấp hành luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông mà phần lớn là lỗi của người điều khiển xe vi phạm luật giao thông đường bộ. Do thiếu quan sát khi cho xe lùi về phía sau, bị cáo T đã gây tai nạn chết 01 người là bị hại Lê Văn H. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra, để có tác dụng răn đe giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt. Đồng thời, cũng nhằm răn đe những người tham gia giao thông nhưng không tuân thủ luật giao thông đường bộ, xem thường sức khỏe, tính mạng của người khác.

[5] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại về tính mạng, tài sản, tổn thất về tinh thần, chi phí mai táng, bia mộ cho gia đình bị hại Lê Văn H số tiền 130.000.000 đồng để khắc phục hậu quả, bà Huỳnh Thị H, Lê Thị Ngọc M đại diện gia đình bị hại đã có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, là lao động chính trong gia đình, do vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát, giáo dục trong một thời gian nhất định cũng đảm bảo được tác dụng răn đe, giáo dục phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là chưa phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, giữa bị cáo, ông Nguyễn Văn T là người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lê Hồng H, và đại diện hợp pháp của bị hại Lê Văn H đã thỏa thuận và bồi thường xong các khoản thiệt hại vật chất, tinh thần cho gia đình bị hại. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Ngô Văn N người đại diện hợp pháp của bị hại không yêu cầu bị cáo Phan Thanh T bồi thường thêm khoản chi phí nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 (một) giấy phép lái xe hạng C, số 79018816xxxx do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/8/2018 cho Phan Thanh T, do Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung cấm bị cáo hành nghề lái xe nên tuyên trả lại cho bị H, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô biển số 61C-311.xx mang tên Lê Hồng H, 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự và 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô biển số 61C-311.xx đã thu giữ trong quá trình điều tra. Xét thấy đây là tài sản hợp pháp của bà Lê Hồng H không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra quyết định xử lý vật chứng số 15 ngày 07/01/2019 trả lại cho bà Lê Hồng H là đúng quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Đối với 01 (một) moọc lôi tự chế thuộc sở hữu của ông Lê Văn H, xét thấy không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã ra quyết định xử lý vật chứng số 15 ngày 07/01/2019 trả lại cho đại diện hợp pháp của bị hại là đúng quy định nên không đặt ra.

- Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 50LB-96xx, số khung: không có, số máy C50E- 6291xxx hiện chưa tìm được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên tiếp tục tạm giữ để làm rõ và xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

[9] Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo Phan Thanh T phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46, Điều 48, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65, điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Áp dụng điểm a, b khoản 3 và khoản 4 Điều 106, khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 328 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Áp dụng các điều 2, 4, 5, 6 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Phan Thanh T phạm tội “Vi phạm qui định về tham gia giao thông đường bộ”.

1. Về hình phạt:

Xử phạt Bị cáo Phan Thanh T 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 09 tháng 4 năm 2019).

Giao bị cáo Phan Thanh T cho Ủy ban nhân dân phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Phan Thanh T có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ từ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Tuyên trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa sơ thẩm, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Phan Thanh T đã thực hiện xong việc bồi thường thiệt hại về dân sự cho gia đình bị hại nên không đặt ra xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Trả cho bị cáo Phan Thanh T 01 (một) giấy phép lái xe hạng C, số 79018816xxxx do Sở giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 27/8/2018 mang tên Phan Thanh T.

(Vật chứng được thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/4/2019 giữa Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bắc Tân Uyên và Công an huyện Bắc Tân Uyên – BL 173).

- Đối với 01 (một) xe ô tô biển số 61C-311.xx; giấy đăng ký xe, giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự và giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô biển số 61C-311.xx; 01 (một) moọc lôi tự chế đã xử lý xong nên không đặt ra.

- Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên tiếp tục tạm giữ 01 (một) xe mô tô biển số 50LB-96xx, số khung: không có, số máy C50E-62912xx hiện chưa tìm được chủ sở hữu hợp pháp để làm rõ và xử lý sau.

4. Án phí: Bị cáo Phan Thanh T phải nộp 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:17/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về