TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 17/2019/HS-PT NGÀY 09/01/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 09 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 801/2018/TLPT-HS ngày 04/12/2018 đối với bị cáo: Hoàng Thanh H do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Thanh H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 137/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội:
* Bị cáo có kháng cáo: Hoàng Thanh H, sinh năm 1980, tại Hà Nội; Nơi cư trú: tổ 50 cụm 8 phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội; Giới tính: nam; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: HTH và bà HT Hn; Vợ là HT Th và có 02 con; Danh chỉ bản số: 119 lập ngày 15/3/2018 tại Công an quận Tây Hồ; Tiền án: chưa có;Tiền sự: chưa có; Nhân thân: có 03 lần bị xử lý (Tháng 02/2000, Công an quận Tây Hồ xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản; Bản án số 01/1999/HSST ngày 13/01/1999 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ xử phạt 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội Trộm cắp tài sản – tài sản trị giá 180.000 đồng, đã xóa án tích; Bản án số 334/2004/HSPT ngày 18/3/2004 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng, thi hành xong năm 2004 – đã xóa án tích); Bị bắt từ ngày:13/3/2018; Hiện đang bị tạm giam;có mặt.
*Bị hại: Chị Phạm Thị Vân A, sinh năm 1996; Trú tại: số 35 ngõ 7 tổ 2 phường LM, quận BTL, thành phố Hà Nội; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13h20 ngày 23.11.2017, Mai Văn T (sinh năm 1965; HKTT Tổ 37 cụm 6, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội) đi cùng anh Nguyễn Xuân G(sinh năm 1984; HKTT Xã TM, thị xã ST, thành phố Hà Nội) và chị Phạm Thị Vân A(sinh năm 1996;HKTT Phường LM, quận BTL, thành phố Hà Nội) đi đến quán bia PX (địa chỉ Tổ 51 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội) để gặp Hoàng Thanh H(sinh năm 1980; HKTT Tổ 50 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội) đang ngồi uống bia với Hoàng Văn V(sinh năm 1966; HKTT Tổ 50 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội) và TTH(sinh năm 1971; HKTT Tổ 50 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội). Giữa hai bên xảy ra mâu thuẫn và xô xát đánh chửi nhau, kết quả anh Mai Văn T, anh Nguyễn Xuân G và chị Phạm Thị Vân A bị thương nặng và được đưa đi cấp cứu.
Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Tây Hồ đã rà soát xung quanh khu vực xảy ra vụ án và tổ chức khám nghiệm hiện trường, kết quả phát hiện và thu giữ:01 gậy gỗ hình trụ chữ nhật màu nâu (kích thước 58 x 3,5 x 3 cm).
Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Tây Hồ ra Quyết định trưng cầu giám định pháp y về tỷ lệ tổn hại sức khỏe và cơ chế hình thành vết thương của anh Mai Văn T, anh Nguyễn Xuân G và chị Phạm Thị Vân A.
Ngày 03.01.2018, Trung tâm pháp y – Sở y tế Hà Nội có Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 05, kết luận về thương tích của anh Mai Văn T như sau : “1. Các sẹo vết thương phần mềm: 02%; 2. Gãy xương bàn II bàn tay pH: 10%; 3. Nhiều khả năng các thương tích do vật tày có cạnh gây nên; Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 12% (mười hai phần trăm)”.
Ngày 15.01.2018, Trung tâm pháp y – Sở y tế Hà Nội có Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 24, kết luận về thương tích của anh Nguyễn Xuân Gnhư sau: “1. Các vết thương, vết mổ: 08%; 2. Khuyết xương sọ vùng bán cầu trái đã ghép xương, vỡ xương đỉnh hai bên: 26%; 3. Ổ tổn thương não, xuất huyết máu tụ ngoài màng cứng thái dương đỉnh trái và dưới màng cứng trán – thái dương trái: 31%; 4. Nhiều khả năng các thương tích do vật tày, vật tày có cạnh gây nên; Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 53% (năm mươi ba phần trăm) theo phương pháp cộng lùi”.
Ngày 17.01.2018, Trung tâm pháp y – Sở y tế Hà Nội có Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 40, kết luận về thương tích của chị Vân A như sau:“1. Các vết sẹo, vết mổ phần mềm: 06%; 2. Gãy 1/3 xương trụ trái : 06%; 3. Các chạm thương phần mềm khác không tổn thương xương, không ảnh hưởng chức năng: Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12/06/2014 không có chương mục nào quy định về tỷ lệ tổn hại sức khỏe đối với chạm thương này; 4. Nhiều khả năng các chạm thương và thương tích do vật tày có cạnh gây nên; Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 12% (mười hai phần trăm)”.
Ngày 23.11.2018, chị Phạm Thị Vân A trình báo sự việc như đã nêu trên, chị Vân A khai bị Hoàng Thanh H và hai thanh niên không quen biết khống chế để cho H dùng gậy đánh nhiều cái vào người (chị Vân A không rõ là đánh vào đâu và có ai là người đã chứng kiến). Ngoài ra, chị Vân A còn trình báo bị mất dây chuyền vàng trong lúc đang giằng co với H. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ đã tiến hành rà soát khu vực xảy ra sự việc nhưng không xác định được nhân chứng hoặc có camera ghi nhận việc chị Vân A bị mất dây chuyền nên Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ không xem xét xử lý. Chị Vân A yêu cầu H bồi thường số tiền 135.000.000 đồng và đề nghị xử lý hành vi của H theo quy định của pháp luật.
Do Hoàng Thanh H vắng mặt tại nơi cư trú nên ngày 12.03.2018, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ đã ra Q định truy nã đối với H. Ngày 13.03.2018, H đến Công an quận Tây Hồ đầu thú.
Tại cơ quan điều tra, H khai:Có vay tiền của anh Nguyễn Xuân G do Mai Văn T giới thiệu. Việc G, T và Vân A đến tìm H tại Quán bia PX là nhằm mục đích đòi tiền. Trong lúc hai bên đang xô xát tại trước cửa Quán bia PX thì H thấy G cầm gậy lao vào cùng Vân A đánh H.H bị đánh một gậy vào mồm làm vỡ răng (H không biết gậy này do ai đánh) nên H đã giật gậy từ tay của G và bỏ chạy về hướng Sông Hồng. Lúc này H không biết G đang ở đâu hoặc trong tình trạng như thế nào. Trong quá trình chạy thì Vân A đuổi theo để tiếp tục đánh H, H vừa dùng gậy đánh vào chân và tay của Vân A vừa bỏ chạy cho đến khi Vân A bị gục xuống, H mới vứt gậy rồi bỏ đi. Bị cáo khai nhận hành vi dùng gậy gây thương tích cho Vân A, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, nhân chứng và các tài liệu chứng khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án.
Cơ quan điều tra đã cho H, TTH, Hoàng Văn V, Vũ Hoa Q, Vân A vàT nhận dạng chiếc gậy, kết quả đều nhận ra chiếc gậy H sử dụng để đánh chị Vân A là chiếc gậy đã thu giữ tại hiện trường.
Về phía H, trong lúc xô xát với nhóm của Vân A, T, G cũng bị gậy đánh làm vỡ răng hàm, bị can có đơn đề nghị giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ ra Quyết định trưng cầu giám định pháp y về tỷ lệ tổn hại sức khỏe và cơ chế hình thành vết thương của H. Ngày 24.05.2018, Trung tâm pháp y – Sở y tế Hà Nội có Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 454, kết luận như sau: “1. Mất răng 1.1 và gãy ½ thân răng 3.2 đã làm răng giả;2. Nhiều khả năng các thương tích do vật tày gây nên;Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 02% (hai phần trăm)”.
Anh Hoàng Văn V trong lúc can ngăn cũng bị thương tích tại khu vực thái dương và quanh mắt trái, V có đơn đề nghị giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ ra Quyết định trưng cầu giám định pháp y về tỷ lệ tổn hại sức khỏe và cơ chế hình thành vết thương của V. Ngày 28.05.2018, Trung tâm pháp y – Sở y tế Hà Nội có Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 461, kết luận như sau: “1. Sẹo vết thương phần mềm: 01%;2. Chạm thương phần mềm vùng thái dương phải và quanh mắt trái hiện hết sưng nề không tổn thương xương, không ảnh hưởng chức năng: Thông tư số 20/2014/TT-BYT ngày 12.06.2014 không quy định cho điểm tỷ lệ tổn hại sức khỏe đối với các chạm thương này;3. Nhiều khả năng thương tích do vật tày, tày có cạnh gây nên.Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 01% (một phần trăm)”.
*Tại cơ quan điều tra, người bị hại, người liên quan, người làm chứng khai các nội dung mâu thuẫn nhau, cụ thể như sau:
- Theo lời khai của anh Mai Văn T (là người có đơn trình báo): Thương tích của anh T là do Hoàng Văn V dùng chân bàn để đánh vào mu bàn tay phải và khu vực vùng thái dương đỉnh phải (hiện chưa xác định được chân bàn). Thương tích của anh G thì anh T không rõ là ai đánh. Thương tích của chị Vân A thì anh T thấy do Hoàng Thanh H dùng gậy đánh nhiều cái vào người chị Vân A(cụ thể đánh vào đâu thì anh Tkhông nhớ rõ).
- Theo lời khai của anh Nguyễn Xuân G (là người có đơn trình báo): Thương tích của anh G thì bản thân không biết ai đánh vì bị tấn công từ phía sau; Thương tích của anh T thì anh G không biết do lúc đó đã bị đánh ngất; Thương tích của chị Vân A thì anh G cho rằng do Hoàng Thanh H gây ra nhưng anh G không trực tiếp chứng kiến. Trong lúc anh G đứng ở ngoài đợi thì thấy chị Vân A hô hoán là bị xàm sỡ nên đã lao vào thì bị đẩy ra và khi H đuổi đánh chị Vân A, anh G có đuổi theo nhưng do bị đánh ngất nên không nhìn thấy trực tiếp việc H đánh chị Vân A.
- Theo lời khai của chị Phạm Thị Vân A(là người có đơn trình báo):Thương tích của các anh G và Tthì chị Vân A không biết do ai gây ra.
Theo lời khai của TTH(là người chứng kiến):Thương tích của anh G và anh T thì TTH không biết do ai gây ra vì lúc đó hỗn loạn; Thương tích của chị Vân A là do H đánh và sự việc này TTH nhìn thấy rõ.TTH cho rằng V trong lúc can ngăn cũng bị anh T đánh gây thương tích nhưng không nặng.
Theo lời khai của anh Hoàng Văn V(là người chứng kiến): Thương tích của các anh G và T thì anh V không biết do ai gây ra, nhưng giữa V và anh T có giằng co và đánh chửi nhau. Thương tích của chị Vân A là do H đánh và sự việc này V nhìn thấy rõ. V cho rằng đã bị anh T dùng chân bàn đánh nhiều cái vào đầu gây ra thương tích (hiện chưa xác định được chân bàn).
Theo lời khai của anh Vũ Hoa Q (người làm chứng): Ngày 23/11/2017, anh Q ngồi uống bia cùng hai người bạn là chị Nguyễn Thị K(sinh năm 1988; trú tại: A1622 Chung cư BCA, 10/50 đường số 03, phường BA, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh) và chị Nguyễn Thị Th(sinh năm 1988; trú tại: 54/6 tổ 40, khu phố 9, phường TP, thành phố BH, tỉnh Đồng Nai) thì chứng kiến sự việc nhóm của chị Vân A, anh T, anh G xô xát với H, cụ thể anh Q thấy: Thương tích của anh G và anh T là do H gây ra. Khi hai người là anh T và anh G đuổi đánh H thì bị H giằng lại cây gậy và đánh thẳng vào gáy và đầu của hai người; còn chị Vân A khi thấy anh T và anh G nằm gục thì đã lao ra đánh H nhưng bị H dùng gậy đánh nhiều cái vào người gây thương tích. TTH và Vlao vào can ngăn thì anh V bị anh G dùng gậy đánh nhiều cái vào mặt và người gây thương tích.
Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ đã tiến hành lấy lời khai của chị Nguyễn Thị K, chị Nguyễn Thị Th, chị VTT(sinh năm 1971; trú tại: Tổ 50 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội), bà LTT (sinh năm 1935; trú tại: Tổ 51 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội), anh Phan Đình P (sinh năm 1975; trú tại: tổ 51 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội), anh Hoàng Trọng Ph (sinh năm 1970; trú tại số 28 ngõ 14 Tổ 50 cụm 8, phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội) đều là người làm chứng trong vụ án. Các lời khai đều thể hiện người làm chứng chỉ biết có sự việc xô xát nhưng không rõ là ai đánh ai hoặc ai gây thương tích cho ai, chỉ sau khi kết thúc sự việc họ mới biết có người bị thương tích nhưng không biết rõ cụ thể là ai.
Do lời khai của Hoàng Thanh H, người liên quan và người làm chứng còn nhiều mâu thuẫn, thương tích của Nguyễn Xuân G, Mai Văn T, Hoàng Văn V, Hoàng Thanh H chưa xác định được đối tượng gây ra, đồng thời hành vi của các đối tượng có dấu hiệu của tội Gây rối trật tự công cộng. Thời hạn gia hạn điều tra đã hết theo quy định, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ tiến hành tách vụ án cố ý gây thương tích liên quan đến thương tích của G, T, V, H và tách rút tài liệu liên quan đến hành vi gây rối trật tự công cộng để tiếp tục điều tra xử lý sau.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 137/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ đã Quyết định: Tuyên bố bị cáo Hoàng Thanh H phạm tội Cố ý gây thương tích; Áp dụng điểm đ khoản 2 điều 134; Điều 38; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt Hoàng Thanh H 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/3/2018. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn Quyết định về bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27/10/2018, bị cáo Hoàng Thanh Hcó đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Người bị hại không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị Bản án.
*Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo H giữ nguyên kháng cáo, bị cáo khai như đã khai tại phiên tòa sơ thẩm và lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra. Bị cáo xác nhận đã có hành vi gây thương tích cho chị Vân A, không thừa nhận việc gây thương tích cho người khác. Bị cáo khai chiếc gậy Cơ quan điều tra cho bị cáo nhận dạng là chiếc gậy anh G đã mang đến để tấn công bị cáo chứ không phải là chiếc gậy bị cáo đã dùng để gây thương tích cho chị Vân A. Bị cáo yêu cầu được đối chất với những người đã có lời khai là bị cáo đã gây thương tích cho anh G, anh T; làm rõ và xử lý người đã gây thương tích cho bị cáo; làm rõ về chiếc gậy Cơ quan điều tra đã thu giữ vàcho bị cáo nhận dạng không phải là gậy bị cáo dùng để gây thương tích cho chị Vân A.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:Về tố tụng: Bị cáo là người có quyền kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định của pháp luật về hình thức, nội dung nên kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, cần được xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Về nội dung: Bản án sơ thẩm kết án bị cáo về tội Cố ý gây thương tích là có căn cứ. Tuy nhiên, xét quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tây Hồ chưa tiến hành điều tra đầy đủ, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, cụ thể là:
- Anh Mai Văn T có lời khai Hoàng Văn V là người gây thương tích cho anh T; Anh Nguyễn Xuân G cũng có lời khai là:V là người gây thương tích cho anh T; Bản thân V cũng thừa nhận có giằng co với T; Anh TTH cũng khai V và T đánh nhau; Có nhiều lời khai thể hiện V là người gây thương tích cho T, bản thân V cũng có lời khai thể hiện có giằng co với T, anh G cũng khai V gây thương tích cho T nhưng các lời khai này chưa được làm rõ, chưa cho anh G nhận dạng V là thiếu sót.
-Cơ quan điều tra ra quyết định tách vụ án hình sự đối với hành vi gây thương tích cho Nguyễn Xuân G; gây thương tích cho Mai Văn T; gây thương tích cho Hoàng Thanh H; gây thương tích cho Hoàng Văn Vlà chưa đảm bảo việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án vi phạm khoản 2 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong vụ án này, lẽ ra Cơ quan điều tra cần phải tiến hành điều tra triệt để làm rõ người gây thương tích cho anh T, anh G, V và H. Nếu thương tích của anh T, G do bị cáo gây ra thì phải kết luận để làm căn cứ truy tố, xét xử cho đúng khung khoản của Điều luật tương ứng; nếu không đủ cơ sở thì phải kết luận cụ thể để bảo đảm việc giải quyết vụ án được chính xác. Việc Cơ quan điều tra ra quyết định tách vụ án hình sự trong vụ án này là không đúng tố tụng, không bảo đảm việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án. Ngoài ra, Cơ quan điều tra ra quyết định tách tài liệu liên quan đến hành vi gây rối trật tự công cộng của các đối tượng có liên quan là chưa có căn cứ pháp luật, chưa đảm bảo việc giải quyết triệt để vụ án vi phạm khoản 2 Điều 170 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Các sai sót trên thuộc trường hợp điều tra chưa đầy đủ vàvi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm hủy Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo được làm trong thời hạn luật định, phù hợp với quy định của Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự về chủ thể kháng cáo, thời hạn kháng cáo; hình thức và nội dung đơn kháng cáo theo đúng quy định của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2].Về nội dung:
[2.1] Về tội danh của bị cáo:Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng; phù hợp kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 23.11.2017, tại khu vực Quán bia PX (thuộc tổ 51 cụm 8 phường PT, quận TH, thành phố Hà Nội). Hoàng Thanh H đã có hành vidùng 01 cây gậy gỗ đánh vào đầu, tay, chân và cơ thể chị Phạm Thị Vân A gây thương tích cho chị Vân A với tỷ lệ thương tích là 12%. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm luật hình sự, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác, gây lo lắng cho nhân dân, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó,Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội Cố ý gây thương tích theoĐiều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm còn có nhiều nội dung cần phải làm rõ để bảo đảm việc truy tố, xét xử được chính xác, đúng pháp luật, cụ thể như sau:
[2.2] Trong quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tây Hồ đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai những người biết sự việc, ra quyết định trưng cầu giám định về thương tích của những người bị thương tích và tiến hành các hoạt động tố tụng khác để thu thập tài liệu, chứng cứ. Tuy nhiên, có một số nội dung Cơ quan điều tra chưa tiến hành điều tra đầy đủ,chưa kết luận cụ thể, chưa bảo đảm việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án như:
- Đối với thương tích của anh Nguyễn Xuân G (thương tích 53%): Người làm chứng Vũ Hoa Q có lời khai:“H giằng được gậy đánh G vào người (không rõ vị trí) làm G gục ngã tại chỗ và H lấy gạch ở khu vực H đang đứng ném vào G khi G đang gục xuống (không rõ vị trí nào ở người) làm G gục hẳn xuống đường”(bút lục 255, 264…); Người làm chứng TTH có lời khai:“H giằng được gậy gỗ của người nam giới trên và anh H đã cầm chiếc gậy gỗ băng tay phải vụt nhiều lần vào cơ thể người phụ nữ và người nam giới”(bút lục 155); các lời khai này cần được làm rõ để xác định bị cáo H có gây thương tích cho anh G hay không?
- Đối với thương tích của anhMai Văn T(12%): Anh T có lời khai Hoàng Văn V là người gây thương tích cho anh (bút lục 188-189); Anh G cũng có lời khai thể hiện: V là người gây thương tích cho anh T (bút lục 222 đến 227); Bản thân Hoàng Văn V cũng thừa nhận có giằng co với T(bút lục 139 đến 142). Người làm chứng TTH cũng khai V và T đánh nhau (bút lục 159 đến 160); còn có nhiều lời khai khác thể hiện Vvà T có xô sát nhưng các lời khai này chưa được làm rõ; chưa cho anh G nhận dạng V; Người làm chứng Vũ Hoa Q có lời khai“H cầm gạch ném lại và trúng vào người T và làm T ngã gục tại chỗ…”(bút lục 255, 264…) lời khai này chưa được làm rõ, cần phải điều tra và kết luận cụ thể để xác định ai là người gây thương tích cho anh T.
- Đối với thương tích của chị Phạm Thị Vân A: Ngoài các lời khai thể hiện H gây thương tích cho Vân A, còn có lời khai của người làm chứng TTH về việc “nhìn thấy 1 người đàn ông bé, thấp đang ôm Vân A để H đánh” (bút lục 163).ChịVân A cũng khai có một người đàn ông nữa cao tầm khoảng 1,6m, tầm khoảng 40 tuổi ôm Vân A để H đánh (bút lục 211), các lời khai này chưa được làm rõ để xác định có ai giúp sức cho H trong việc gây thương tích cho Vân A hay không? Nếu có người giúp sức cho H trong việc gây thược tích cho Vân A thì cần phải làm rõ, xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với thương tích của Hoàng Thanh H, Hoàng Văn V: Trong vụ này này G và V cũng bị thương tích, có nhiều lời khai thể hiện nhóm của G, T gây thương tích cho H và V (bút lục 102, 140, 253), cần điều tra và kết luận ai gây thương tích cho H và V để bảo đảm việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án.
- Hoàng Thanh H chỉ thừa nhận có hành vi gây thương tích cho chị Vân A, không thừa nhận gây thương tích cho người khác, không thừa nhận có người nào khác giúp sức cho bị cáo để gây thương tích cho chị Vân A. Lời khai của H có mâu thuẫn với lời khai của bị hại, lời khai người làm chứng, nhưng Cơ quan điều tra mới cho H đối chất với người làm chứng TTH mà chưa tiến hành đối chất giữa H với bị hại Vân A và những người làm chứng khác như Vũ Hoa Q và những người có liên quan đến sự việc như G, T, V… là chưa bảo đảm về thủ tục tố tụng quy định theo Điều 189 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H yêu cầu được đối chất với bị hại và người làm chứng để làm rõ sự việc và làm rõ người gây thương tích cho bị cáo.
- Sau khi sự việc xảy ra, Ngày 26/11/2017 Ủy ban nhân dân phường PT có văn bản số 258/UB-VP đề nghị Cơ quan điều tra làm rõ sự việc các đối tượng có hành vi gây rối trật tự công cộng và xử lý theo quy định của pháp luật (bút lục 57). Cơ quan điều tra đã thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến hành vi của các đối tượng có liên quan, có nhiều lời khai của người làm chứng, lời khai của chính các đối tượng có liên quan thể hiện các nhóm có hành vi đuổi đánh nhau nơi công cộng như lời khai của những người làm chứng Vũ Hoa Q (bút lục 253), TTH (bút lục 160), lời khai của Vân A, H, V, T nhưng Cơ quan điều tra không kết luận mức độ hành vi của các đối tượng có cần xử lý hình sự hay không mà ra quyết định tách rút tài liệu số 37 ngày 30/7/2018, “tách rút tài liệu liên quan đến hành vi gây rối trật tự công cộng trong vụ án Cố ý gây thương tích” là không bảo đảm việc giải quyết khách quan, toàn diện vụ án, không đảm bảo quy định tại khoản 2 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tây Hồ đã ra quyết định tách vụ án hình sự số 04 ngày 30/7/2018, “tách hành vi liên quan đến thương tích của Nguyễn Xuân G, Mai Văn T, Hoàng Văn V, Hoàng Thanh H, trong đó có liên quan đến hành vi gây thương tích của bị can Hoàng Thanh H” để điều tra, xử lý sau. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã khám nghiệm hiện trường, lấy lời khai những người biết sự việc, ra quyết định trưng cầu giám định về thương tích của những người bị thương tích và tiến hành các hoạt động tố tụng khác để thu thập tài liệu, chứng cứ; cơ quan giám định cũng đã có kết luận giám định về thương tích của từng người cần giám định. Lẽ ra, Cơ quan điều tra cần phải điều tra triệt để và có kết luận rõ về những người có hành vi gây thương tích cho người khác, hoặc có hành vi gây rối trật tự công cộng để xử lý theo quy định của pháp luật nhưng Cơ quan điều tra chưa thực thực hiện hết các hoạt động tố tụng nhưnhận dạng, đối chất … (như đã nêu trên) để có kết luận cụ thể ai là người đã gây thương tích cho anh T, G, V, và thương tích của bị cáoH. Nếu xác định được thương tích của các anh G, T do bị cáo H gây ra thì phải kết luận để làm căn cứ truy tố, xét xử bị cáo cho đúng khung khoản của Điều luật tương ứng; xác định có hay không người đồng phạm giúp sức cho bị cáo H trong việc gây thương tích cho chị Vân A;tính chất mức độ của các đối tượng tham gia có cần xử lý về hành vi gây rối trật tự công cộng hay không? Việc Cơ quan điều tra ra Quyết định tách vụ án hình sự trong vụ án này là không chính xác, vi phạm khoản 2 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện vụ án, có thể dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc việc truy tố, xét xử không đúng điều khoản của Bộ luật hình sự.
[2.3] Về các tình tiết mới:Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại là chị Phạm Thị Vân A không kháng cáo nhưng có đơn gửi đến Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu bồi thường thêm về thương tích với số tiền 8.433.123 đồng (kèm theo là các hóa đơn chứng từ bổ sung). Chị Vân A trình bày: Tại cấp sơ thẩm do chưa thu thập được đủ hóa đơn chứng từ để nộp cho Tòa án nên đến nay chị đề nghị Tòa án xem xét, giải Quyết bổ sung các yêu cầu trên. Đây là yêu cầu mới của bị hại có liên quan đến việc giải Quyết vụ án cần được xem xét giải Quyết để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại.
[2.4] Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo có yêu cầu được đối chất làm rõ về việc bị cáo có gây thương tích cho anh T, anh G hay không? Làm rõ chiếc gậy Cơ quan điều tra thu giữ có phải là gậy bị cáo gây thương tích cho chị Vân A hay không? Có còn ai khác đồng phạm với bị cáo hoặc những người khác có hành vi gây thương tích, gây rối trật tự công cộng hay không? Do đó, việc tách rút tài liệu của Cơ quan điều tra là chưa chính xác, có thể dẫn đến việc điều tra, truy tố, xét xử không đúng điều khoản của Bộ luật hình sự mà cấp phúc thẩm không thể khắc phục được; đồng thời tại cấp phúc thẩm phát sinh tình tiết mới là bị hại trong vụ án có yêu cầu bổ sung về việc bồi thường dân sự cần được xem xét, giải quyết để bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm theo Điều 27 Bộ luật tố tụng hình sự (bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử). Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa về việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa phúc thẩm, hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử khách quan, toàn diện theo đúng quy định của pháp luật.
[3]Về các nội dung khác: Bản án sơ thẩm bị hủy để điều tra lại nên Hội đồng xét xử không xem xét kháng cáo của bị cáo về việc đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo phải không nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 355; Điều 358; Điều 360 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 137/2018/HS-ST ngày 26/10/2018 của Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội để điều tra lại; Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội để tiến hành điều tra lại theo thủ tục chung theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 17/2019/HS-PT ngày 09/01/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 17/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về