Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 17/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 06/2019/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 01 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2019; quyết định hoãn phiên tòa số 08/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Ph, sinh năm: 1972 (có mặt)

Địa chỉ: Số 3472 khu phố 3 phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Tàu

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm: 1971 (vắng mặt)

Địa chỉ: Số 3472 khu phố 3 phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Phan Thị Ph trình bày:

Bà Phan Thị Ph và ông Nguyễn Văn H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1993, có tổ chức đám cưới, đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường P, thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn số 63 quyển số 01/2001 ngày 23/10/2001.

Sau khi kết hôn bà Ph và ông H về xây nhà chung sống cùng nhau trên phần diện tích đất mẹ bà Ph cho ở nhờ tại địa chỉ: số 3472 khu phố 3, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc cho đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống. Bà và ông H đã sống ly thân cách đây một năm. Bà về sống trong căn nhà của mẹ ruột bà bên cạnh căn nhà của bà và ông H. Cả hai không có động thái hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Nay mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn H.

-Về con chung: Bà Ph và ông H có hai người con chung là cháu Nguyễn Hiệp Hoàng Nguyên V, sinh ngày 25/6/1994 và Nguyễn Vũ Phúc C (Nguyễn Dũ Phúc C), sinh ngày 03/10/2001. Cháu V đã trưởng thành, bà Ph không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Bà Ph yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu C đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà Ph và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

- Về nợ chung: Bà Ph và ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Văn H: Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia làm việc và tham gia phiên tòa xét xử nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do.

3 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có ý kiến như sau:

- Về tố tụng:

Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp ly hôn, nuôi con. Bị đơn có nơi cư trú tại thành phố B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc thu thập chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải là đúng quy định tại các Điều 97, Điều 208-211 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng. Bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật.

- Về nội dung:

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận công hai tại phiên tòa sau khi nghe ý kiến của Vị đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

-Về thủ tục tố tụng:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bà Phan Thị Ph có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn H và giải quyết vấn đề về con chung giữa bà và ông H. Đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và việc Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Nguyễn Văn H mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần để tham gia phiên tòa xét xử nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn xét xử vụ án trên theo quy định.

-Về nội dung giải quyết:

[2]. Bà Phan Thị Ph và ông Nguyễn Văn H tự nguyện chung sống với nhau từ năm 1993, đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên hôn nhân của bà Ph và ông H là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà Ph thì cuộc sống vợ chồng hạnh phúc cho đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên bà và ông H sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay, cả hai không có động thái hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Xét trong mỗi gia đình thì cả vợ chồng đều phải có nghĩa vụ yêu thương, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng ở bà Ph và ông H thì do mâu thuẫn nên cả hai không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, dẫn đến phải sống ly thân. Vì vậy nhận thấy tình trạng vợ chồng giữa bà Ph và ông H đã đến mức trầm trọng và đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhiều lần yêu cầu ông H tham gia buổi hòa giải và phiên tòa xét xử nhưng ông H vẫn vắng mặt. Điều đó cho thấy ông H không có thiện chí để hàn gắn quan hệ hôn nhân của chính mình. Do đó yêu cầu xin ly hôn của bà Ph là có cơ sở, nên được chấp nhận.

-Về con chung: Bà Phan Thị Ph và ông Nguyễn Văn H có hai người con chung là cháu Nguyễn Hiệp Hoàng Nguyên V, sinh ngày 25/6/1994 và Nguyễn Vũ Phúc C (Nguyễn Dũ Phúc C), sinh ngày 03/10/2001. Cháu V đã trưởng thành, bà Ph không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Bà Ph yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu C đến đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét bà Ph là người có việc làm và có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu C. Ông H biết được yêu cầu của bà Ph về vấn đề con chung nhưng cũng không có ý kiến gì. Do vậy yêu cầu của bà Ph về việc giao cháu C cho bà trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi là phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của con chung, nên cần chấp nhận yêu cầu này của bà Ph.

-Về tài sản chung: Bà Phan Thị Ph không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Về nợ chung: Bà Phan Thị Ph không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Còn đối với ông Nguyễn Văn H sau khi nhận được thông báo thụ lý và trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng không có ý kiến yêu cầu gì về vấn đề tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Bà Phan Thị Ph phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Ph

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Ph và ông Nguyễn Văn H được ly hôn.

[2]. Về con chung: Bà Phan Thị Ph được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Vũ Phúc C (Nguyễn Dũ Phúc C), sinh ngày 03/10/2001 đến khi cháu C đủ 18 tuổi. Ông Nguyễn Văn H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Văn H có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

[3]. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4].Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phan Thị Ph phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí bà Ph đã nộp theo biên lai thu tiền số 0009744 ngày 26/12/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Như vậy bà Ph đã nộp xong án phí.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 24/4/2019) các đương sự có mặt có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 17/2019/HNGĐ-ST ngày 24/04/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:17/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về